Tải bản đầy đủ (.pdf) (5 trang)

Lịch sử di cư của người Hoa vào Đàng Trong doc

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (124.42 KB, 5 trang )

Lịch sử di cư của người
Hoa vào Đàng Trong




Trong lịch sử Việt Nam, vương quốc Đàng Trong là một hiện
tượng khá đặc biệt. Từ một thế lực cát cứ nhỏ bé so với Đàng Ngoài,
Đàng Trong đã vươn lên lớn mạnh, tiếp tục di dân khẩn hoang, mở
mang lãnh thổ, can thiệp ảnh hưởng ở Chân Lạp, đối trọng vớI Xiêm
La… Trong nhiều hoạt động của Đàng Trong , người Hoa đã tham gia
ngay từ đầu như những lực lượng đóng góp quan trọng. Ngược lại,
Đàng Trong với những đặc điểm khá riêng biệt đã thu hút mạnh mẽ
những ngườI Trung Hoa di cư đến làm ăn sinh sống, cư ngụ lâu dài
như vùng đất lành chim đậu.

Lịch sử quá trình di cư của người Hoa vào Đàng Trong gắn chặt với
tiến trình lịch sử phát triển của Đàng Trong và tình hình vùng duyên
hải Nam Trung Hoa.
Vào giữa cuối thế kỷ XVII, tình hình Trung Quốc có nhiều biến động.
Năm 1644, với sự cộng tác của viên tướng nhà Minh phản bội là Ngô
Tam Quế, quân đội Mãn Thanh đã chiếm được Bắc Kinh. Năm sau,
Nam Kinh cũng thất thủ. Về cơ bản, Mãn Thanh đã thống trị toàn
Trung Hoa từ đó.

Tuy nhiên, ở vùng Hoa Nam, tình hình vẫn còn hỗn loạn. Cuộc kháng
chiến của các đại diện tôn thất nhà Minh vẫn tiếp tục, mặc dù yếu ớt.
Ba vua nhà Minh là Lỗ vương kháng chiến ở Chiết Giang, Đường
vương ở Phúc Kiến và Quế vương ở Quảng Đông. Họ đều có hùng
tâm, được dân chúng ủng hộ nhưng thực tế yếu ớt, nên lần lượt thất
bại. Quế vương chống cự lâu hơn cả, bị quân Thanh truy đuổi phải


chạy sang trú ở Miến Điện. Ngô Tam Quế đem quân sang ép vua Miến
Điện phải giao nộp Quế vương và giết chết ông năm 1662.
Một viên tướng của Đường vương là Trịnh Thành Công đã tiếp tục
kháng chiến, hô hào “Phản Thanh phục Minh”. Thất bại ở đất liền,
Trịnh Thành Công kéo quân ra chiếm Đài Loan làm cứ điểm kháng
chiến lâu dài, làm chủ cả vùng duyên hải đông nam Trung Hoa trong
suốt mấy mươi năm. Năm 1662, Trịnh Thành Công mất, con là Trịnh
Kinh thay, tiếp tục chiến đấu. Năm 1681, Trinh Kinh cũng mất, còn là
Trịnh Khắc Sản thay thế, nhưng không đủ tài năng để lãnh đạo. Hai
năm sau, quân Mãn Thanh tấn công Đài Loan, Trịnh Khắc Sản đầu
hàng quân Thanh.

Mãn Thanh nhanh chóng đánh bại được nhà Minh một phần nhờ sự
giúp sức của các hàng tướng nhà Minh. Sau khi bình định xong Trung
Hoa, Mãn Thanh phong tước cho các hàng tướng có công, cử họ đem
quân trấn giữ các tỉnh phía Nam: Ngô Tam Quế giữ Vân Nam, Thượng
Khả Hỉ ở Quảng Đông, Cảnh Kế Mậu ở Phúc Kiến. Người đời thường
gọi họ là Tam Phiên vương. Ba người này nhân lúc thế lực Mãn Thanh
chưa vững vàng ở phương Nam, đã xây dựng lực lượng, dần dần ly
khai, chống lại Mãn Thanh. Quân Thanh phải đem quân đánh dẹp.
Trong Tam Phiên, Ngô Tam Quế có lực lượng mạnh nhất, đã từng
xưng đế, đặt tên nước là Đại Chu (1678), nhưng chỉ được ba năm sau
thì bị nhà Thanh diệt.

Tóm lại, trong khoảng thời gian gần 40 năm sau khi quân Thanh
chiếm được Nam Kinh, cơ bản cai trị Trung Hoa, vùng Hoa Nam là bãi
chiến trường khốc liệt giữa Mãn Thanh và các lực lượng chống đối
theo xu hướng chính trị khác nhau. Trong đó nổi bật là cuộc khánh
chiến của lực lượng “Phản Thanh phục Minh”. Trong khoảng thời gian
40 năm đó, đã có các đợt di cư của người Hoa ra nước ngoài, xa lánh

ách thống trị của Mãn Thanh. Tiêu biểu là đợt di cư của Trần Thượng
Xuyên, Dương Ngạn Địch của nhóm Mạc Cửu.

Về sự kiện nhóm Trần Thượng Xuyên và Dương Ngạn Địch đến Đàng
Trong, Đại Nam Thực Lục Tiền Biên của triều Nguyễn ghi rõ: “… Kỷ
Mùi (1679), mùa xuân, tháng giêng, tướng cũ nhà Minh là Long Môn
Tổng binh Dương Ngạn Địch và phó tướng Hoàng Tiến, Cao Lôi Liêm
binh Trần Thượng Xuyên và phó tướng Trần An Bình đem hơn 3000
quân và hơn 50 chiếc thuyền đến các cửa biển Tư Dung và Đà Nẵng,
tự trần là bô thần nhà Minh, vì nghĩa không chịu làm tôi nhà Thanh,
nên đến để xin là tôi tớ…”. Chúa Hiền đã dung nạp họ đưa vào khai
khẩn đất Biên Hoà và Mỹ Tho. Đoàn người Hoa này đã “… vỡ đất phá
hoang, dựng thành phố chợ, buôn bán giao thông với người Trung
Quốc, Tây Dương, Nhật Bản. Thuyền buôn tấp nập, phong hoá Trung
Hoa đã dần dần thấm thía xanh tốt khắp đất Đông Phố…”, như Trịnh
Hoài Đức đã nhận xét trong Gia Định Chí.

Nhóm Mạc Cửu gia nhập Đàng Trong trong hoàn cảnh khác hơn. Ông
sinh ngày 8 tháng 5 năm Ất Mùi (1855). Như vậy Mạc Cửu sinh ra và
trưởng thành khi nhà Minh đã đổ, Mãn Thanh cơ bản thống trị Trung
Hoa. Ông đã rời bỏ quê hương ra đi để tránh bị cạo đầu bím tóc theo
phong tục Mãn Thanh. Cũng theo Thực Lục Tiền Biên, ông đã đến
Chân Lạp “… làm chức Ốc Nha, thấy phủ Sài Mạt ở nước ấy có nhiều
người buôn các nước thụ họp bèn mở sòng gác bạc để thu thuế gọi là
hoa chi, lại được hố bạc chôn nên thành giàu. Nhân đó chiêu tập dâu
xiêu dạt đến các nơi Phú Quốc, Cần Bột, Giá Khê, Luống Cày, Hương
Úc, Cà Mau, lập thành 7 xã thôn. Thấy ở đất ấy tương truyền có người
tiên thường hay hiện ra ở trên sông, nhân thế đặt tên là Hà Tiên. Đến
đây Mạc Cửu cho ngườI bộ thuộc là Trương Cầu và Lý Xá dâng thư xin
làm Hà Tiên trưởng. Chúa nhận cho, trao cho chức Tổng binh. Cửu

xây dựng dinh ngũ, đóng ở Phương Thành, nhân dân ngày càng đến
đông…”

×