Tải bản đầy đủ (.pdf) (8 trang)

G. W. G. Hegel - HIỆN TƯỢNG HỌC TINH THẦN [Phần 2]: TRI GIÁC_6 pot

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (118.19 KB, 8 trang )

G. W. G. Hegel - HIỆN TƯỢNG HỌC
TINH THẦN
[Phần 2]: TRI GIÁC

(227)Ý thức tri giác có xu hướng loại bỏ cái tồn tại-khác ra khỏi ý thức
lẫn khỏi sự vật cá biệt. Nhưng, Hegel sẽ cho thấy cái tồn tại-khác tất
yếu chuyển hóa vào bên trong sự vật. Ở đây, Hegel muốn tránh mọi
cách giải quyết theo kiểu duy tâm chủ quan.


(228)“Unterschied” và “Verschiedenheit”:trong thuật ngữ của Hegel,
cần phân biệt giữa hai chữ: “Unterschied” (đối lập với Identität/tính
đồng nhất) được dịch vừa là sự phân biệt (Anh/Pháp: distinction), vừa
là sự dị biệt (Anh/Pháp: difference) có tính “chủ động”, như là kết quả
của một tiến trình tự-phân biệt, tự-dị biệt hóa. Còn “Verschiedenheit”
(tạm dịch là “tính khác biệt”/Anh: diversity; Pháp: diversité) thì có
nghĩa “bị động” hơn là Unterschied, nó không chứa đựng một tiến trình
tự-phân biệt chủ động. Đặc điểm của “Verschiedenheit” là: những cái
khác nhau (verschiedene Dinge) là dửng dưng (gleichgültig) đối với sự
phân biệt hay sự dị biệt (Unterschied) giữa chúng với nhau !.


(229)“Beschaffenheit”: “tính chất cấu tạo”:mặt biến dịch và hời hợt
bên ngoài đối lập với bản tính bất biến bên trong. Vd: những mặt “tự
nhiên” (thân thể) và cảm năng (ngũ quan) của con người so với bản tính
có tư duy của con người. Tất nhiên, có thể làm cho “tính chất cấu tạo”
tương ứng với bản tính trong chừng mực nào đó.


(230)Ý thức muốn tránh sự đối lập ở bên trong sự vật, nên phân biệt
một bên là tính quy định bản chất của sự vật, là cái làm cho nó tách rời


với những sự vật khác và bên khác là một tính chất cấu tạo đa tạp
(mannigfaltige Beschaffenheit) không-bản chất, tuy vẫn cần thiết. Sự
phân biệt này không đứng vững được: tính khác biệt (Verschiedenheit)
cũng là tất yếu để sự vật được xác định và được phân biệt
(unterschieden).


(231)“Bestimmheit”: “tính quy định”: còn hiểu là “tính quy định về
chất”. Hegel tiếp thu quan niệm của Spinoza rằng “mọi khẳng định là
phủ định”, theo đó một sự vật hay Khái niệm chỉ được xác định là nhờ
vào sự đối lập của nó với những sự vật hay với những Khái niệm khác.
Do đó, “tính quy định” luôn gắn liền với sự phủ định, nói lên bản tính
của một cái gì để phân biệt với cái khác. (Xem: Khoa học lô-gíc: Phần I:
Học thuyết về Tồn tại).


(232)Hoạt động của sự phủ định ở trong cái tồn tại-cho mình là sự tự-
phủ định chính mình hay là sự quay trở lại với cái phổ biến.


(233)“Bestimmung” (“sự quy định”):thuật ngữ quan trọng của Hegel,
thường hiểu tương đương với “Khái niệm” (Begriff) về/của sự vật.
(Hegel thường phân biệt “tính quy định”/“Bestimmheit” và “sự quy
định”/“Bestimmung”, chẳng hạn trong hai cách hiểu về chữ “thực sự”
(reell): “một con người thực sự” là khác với pho tượng vì nó có “tính
quy định” [về chất]/“Bestimmheit” của một con người (vd: có lý trí);
đồng thời, cũng có nghĩa là “một con người thực sự” chỉ khi thực hiện
trọn vẹn “sự quy định” hay “vận mệnh”/“Bestimmung” (hay “Khái
niệm” về con người), đó là, khi thực sự suy nghĩ và hành động có lý trí).
Xem: Khoa học Lô-gíc, P.I. (và chú thích 223 cho §120).



(234)Đó là cái đã tách rời sự thống nhất và tính đa tạp của sự vật.
Những sự đối lập đa tạp (cái Cũng và cái Một; cái tồn tại-cho mình và
tồn tại-cho cái khác; cái không-bản chất và cái bản chất) mà Ý thức cố
tách ra khỏi sự vật thì thực ra là những gì tạo nên sự vật. Cái phổ biến –
bị tác động bởi ý thức tri giác từ bên ngoài – là cái phổ biến có-điều
kiện (bị ý thức điều kiện hóa) sẽ trở thành cái phổ biến vô-điều kiện vì
nó sẽ là tiến trình vận động của cái đối lập tự tạo ra cái đối lập của
chính mình.


(235)“Wesenheit” (“tính bản chất”): (Anh/Pháp:
essentiality/essentialité):thuật ngữ của Hegel chỉ cái gì tạo nên bản
chất của một sự vật. (Khi ở dạng “số nhiều”: “Wesenheiten”, thì tương
đương với “các quy định phản tư”/ Reflexionsbestimmungen (“đồng
nhất”, “dị biệt”, “mâu thuẫn” ), tức các quy định tạo nên bản chất của
những sự vật và được tạo ra bởi sự phản tư hay tương thích với sự
phản tư, được nghiên cứu trong Chương II của “Học thuyết về Bản
chất”, phần 2 của Khoa học Lô-gíc. Xem: Khoa học Lô-gíc, Meiner, II, tr.
24-59.


(236)“Gegensatz” (“sự đối lập”) (Anh/Pháp: opposition)hình thành từ
thế kỷ 15 để dịch chữ latinh “oppositio” (từ chữ “opponere”: đặt
ngược lại). Thường được Hegel dùng đồng nghĩa với chữ
“Entgegensetzung” (sự đối lập, từ chữ gốc: Setzen: thiết định). Ông
cũng dùng chữ “Polarität” (sự đối lập phân cực) có nguồn gốc Hy Lạp,
hình thành từ thế kỷ 18, và chữ Đức ròng: “Gegenteil” (cái đối lập, cái
ngược lại) (xem §130). Chữ “sự đối lập” có nguồn gốc xa xưa trong triết

học phương Tây. Người Hy Lạp thường xem thế giới được cấu tạo bởi
những lực, chất hay bản thể đối lập (vd: nước-lửa; nóng-lạnh; ướt-
khô ) (Anaximander, Pythagore, Heraklit). Platon và Aristote xem sự
biến dịch là sự chuyển hóa từ một cái đối lập sang cái đối lập khác, cũng
như xem những sự vật trung gian như là sự pha trộn của những cái đối
lập (vd: màu sắc là sự pha trộn khác nhau giữa trắng và đen).

Quan niệm cho rằng các sự đối lập sẽ kết hợp lại và được hợp nhất
trong cái Vô-tận (Thượng đế) là của Nicolas Cusanus (vd minh họa của
ông: đường kính của vòng tròn tăng lên thì độ cong của chu vi giảm đi;
nên nếu đường kính tăng lên đến vô tận, nó sẽ thống nhất với đường
thẳng!) và của G. Bruno. Goethe và phái lãng mạn xem thế giới là sự
đối lập hay phân cực. Hamann đề ra nguyên tắc về sự thống nhất các
sự đối lập chống lại các sự nhị phân của Kant và nguyên tắc này giữ vai
trò trung tâm trong triết học Schelling.

Sự đối lập cũng là một đặc điểm của khái niệm và mệnh đề. Aristote
phân biệt mệnh đề đối lập (vd: “mọi A là B” và “không A nào là B”) với
mệnh đề mâu thuẫn (“Mọi A là B” và “một số A là không-B”). Với Hegel,
sự đối lập (Ggensatz) bao hàm cả sự mâu thuẫn (vd: “là A” và “là không-
A”) lẫn sự tương phản (“đen” và “trắng”). Quan niệm về sự đối lập có
vai trò trung tâm trong tư tưởng Hegel và gồm các đặc điểm sau:

- Một sự vật chỉ có một cái đối lập: nếu “bắc” đối lập với “nam”, nó
không thể đối lập với cái gì khác (đây là tư tưởng bắt nguồn từ Platon
và Aristote: nếu “bén” vừa đối lập với “phẳng” và “cùn”, chữ “bén” hẳn
có hai ý nghĩa (Aristote).

- Nếu hai sự vật đối lập nhau, chúng thiết yếu tác động lẫn nhau và
không thể tách rời nhau: (Vd: hai cực của nam châm; cái xấu, cái ác là

điều kiện tất yếu của cái thiện, do đó không thể loại trừ cái ác ra khỏi
thế giới, thậm chí ra khỏi cá nhân con người).

- Đối với một số sự đối lập, không chỉ mỗi cái đối lập đòi hỏi có cái
khác mà mỗi cái cũng là hay cũng trở thành cái khác.

- Một số cái đối lập không thể phân biệt với nhau từ bản thân chúng
mà chỉ từ sự đối lập giữa chúng với nhau: (Vd: hai cực của nam châm
không có sự dị biệt “tự thân”, vì thế Hegel không gọi chúng là “giống
nhau”/“khác nhau” mà gọi là “cùng tên”/“khác tên” khi chúng hút hoặc
đẩy nhau. (Xem: Chương III, §156 và tiếp).

- Các cái đối lập chuyển hóa sang nhau khi chúng đạt đến cực điểm:
Vd: lý giải ví dụ trên đây của Nicolas Cusanus theo tính vô tận “tốt”,
“đúng thật” (xem chú thích 270); sự chuyển hóa trong quan hệ Chủ-Nô
(xem Chương IV, §178 và tiếp); chuyển hóa của các khái niệm đối lập
như là động lực của phép biện chứng: vd: tồn tại thuần túy trở thành
hư vô thuần túy và ngược lại. (Khoa học lô-gíc).

- Khác Schelling, Hegel không xem các cái đối lập là trở thành (hay bắt
nguồn từ) một cái Tuyệt đối trung tính hay điểm bất phân biệt mà
chuyển hóa sang cái khác ở cực điểm của chúng. Sự hợp nhất tối hậu
của chúng ở trong “Ý niệm tuyệt đối” cũng không phải là sự trung tính
trần trụi mà là một tính toàn thể cụ thể hay là Hệ thống, vượt bỏ sự đối
lập nhưng không “thủ tiêu” nó. Tuy nhiên, nhìn chung, quan niệm của
Hegel về sự đối lập có tính minh họa, miêu tả hơn là có hệ thống, vì ông
không phân biệt thực rõ những loại hình khác nhau của sự đối lập lẫn
những phương thức đối lập của chúng. (Xem thêm: chú thích 285 cho
§160 về “sự mâu thuẫn” (der Widerspruch)).



(237)Đúc kết tiến trình và bước chuyển sang Giác tính: Cái phổ biến
thoát thai từ tri giác cảm tính đã để tính đa tạp ở bên ngoài mình. Từ
nay, nhất thể tự phản tư vào trong tính đa tạp, và tính đa tạp tự phản
tư vào trong tính nhất thể. Các yếu tố không còn được đặt tách rời
nhau mà chuyển hóa sang nhau. Bản chất khách quan sẽ là Lực
(Chương III, §136) và hình thái ý thức nắm bắt yếu tố này ở trong yếu
tố kia sẽ là Giác tính.


(238)“die Sophisterei” (“sự ngụy biện”): Lô-gíc của tri giác là lô-gíc ngụy
biện (“trong chừng mực”, “cái Một”, “cái Cũng” ) hòng cứu vãn tính
nhất thể cứng nhắc của sự vật.

×