Tải bản đầy đủ (.pdf) (7 trang)

G. W. G. Hegel - HIỆN TƯỢNG HỌC TINH THẦN [Phần 2]: TRI GIÁC_5 potx

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (110.22 KB, 7 trang )

G. W. G. Hegel - HIỆN TƯỢNG HỌC
TINH THẦN
[Phần 2]: TRI GIÁC

(206)Cũng giống như trong kinh nghiệm của sự xác tín cảm tính trước
đây, đối tượng trước hết được thiết định như là cái bản chất, còn ý
thức như là cái không-bản chất. Tiến trình tự kiểm tra lại bắt đầu.


(207)Hegeldùng lại chữ “trò phụ diễn” (Beiherspielen): trong sự xác tín
cảm tính, cái cá biệt chỉ là một “ví dụ”, một “trường hợp điển hình”,
tách rời với cái bản chất phổ biến của nó. Trong tri giác, sự phong phú
của cái biết có sự đối ứng ở cả hai phía: người tri giác và cái được tri
giác.


(208)Vd: quả chanh có hình tròn, vị chua : “tròn”, “chua” là các
thuộc tính phổ biến có chung với nhiều sự vật khác.


(209)Thuộc tính, tức “cái này cảm tính đã được vượt bỏ”, là đối tượng
đích thực của tri giác. Trong sự phát triển biện chứng của nó, như sẽ
thấy, đối tượng này sẽ hình thành hai đối cực: tính phổ biến của vật
tính và tính cá biệt tuyệt đối của sự vật.


(210)Theo J.H, chữ “diễn tả” hay “diễn đạt” (ausdrücken) là thuật ngữ
của Spinoza. Toàn bộ vận động của tri giác là ở chỗ đi từ Bản thể (nhất
thể khẳng định) sang đơn tử (Monade) (nhất thể phủ định); từ vật tính
sang Lực, từ thuyết cơ giới sang động học.



(211)Sự quy định này mới giải thích được tính phủ định của chúng.
Trong học thuyết Spinoza, theo Hegel, biểu hiện đích thực của tính phủ
định không phải là ở trong thuộc tính (Attribute) mà ở trong thể cách
(Modus).


(212)“frei von” : thoát ly khỏi


(213)“Môi trường” và “cái Cũng dửng dưng”:“Môi trường” theo nghĩa
ban đầu là “môi trường vật lý”. Cái “không gian” cho những thuộc tính
là cái phổ biến của chúng, là sự thống nhất chung của chúng (vd: hạt
muối). Các thuộc tính (vd: trắng, vuông, mặn ) tham gia vào tính phổ
biến thuần túy này thì bản thân cũng có tính phổ biến (vd: trắng, vuông,
mặn là thuộc tính phổ biến của nhiều sự vật khác). Nhưng “môi
trường” này, tuy là bản thể, nhưng không phải là tính phủ định tuyệt
đối. Nó là tính phổ biến khẳng định chứ chưa phải là nhất thể phủ
định, chưa phải là “cái Một loại trừ” như sẽ thấy ở sau (vd: mặn loại trừ
ngọt ); do đó Hegel gọi nó là cái Cũng (das Auch) của những thuộc
tính. Trong Lô-gíc học ở thời kỳ Jena (W.XVIII a, tr. 36), Hegel cũng đã
gọi cái Cũng này là cái Và (das Und).


(214)Bước chuyển sang cái đối lập: từ nhất thể khẳng định sang nhất
thể phủ định, từ vật tính sang sự vật.


(215)“Các chất liệu” (Materien):tức các “chất liệu tự do” trong vật lý
học đương thời. Những thuộc tính được hình thành trong “chất liệu”

nhiệt, điện, từ v.v


(216)Sự vật được hình thành nên cho ta như là sự mâu thuẫn giữa tính
nhất thể phủ định và tính phổ biến. Sau đây, ý thức hiện tượng học ở
cấp độ tri giác sẽ trải nghiệm về sự vật với mâu thuẫn cơ bản này. Chỉ
khi ý thức tri giác tự nâng mình lên đến sự thống nhất giữa hai mặt đối
lập này, nó mới trở thành “giác tính” (Chương III). Bấy giờ, như ta sẽ
thấy, sự vật là Lực như Phạm trù hợp nhất.


(217)Đây là thái độ đầu tiên của tri giác: thái độ “giáo điều ngây thơ”,
khi khẳng định rằng đối tượng phải là cái gì ngang bằng với chính nó.
Nhưng, cũng chính kinh nghiệm đầu tiên cho ý thức biết rằng ý thức có
thể “tự lừa dối mình” (như nhan đề của Chương này). Kinh nghiệm đầu
tiên này sẽ dẫn ý thức từ lập trường giáo điều đến lập trường phê phán
(như của John Locke).


(218)Nghịch lý (Antinomie) của cái bản chất khách quan nói chung: tính
liên tục và tính bất-liên tục.


(219)Tức là sự phản tư đi từ cái đúng thật (đối tượng) vào lại trong
chính mình (Chủ thể). (Giống như bước kiểm tra thứ hai của sự xác tín
cảm tính trước đây: ý thức “bị xua đuổi ra khỏi đối tượng” và “quay trở
lại tìm sự thật ở trong chính mình”: §100). Nhưng, như sẽ thấy ở các
giòng sau, chỗ khác với trước đây là tri giác không đi tìm cái đúng thật ở
trong chính mình mà lại thấy chính mình phạm sai lầm.



(220)Đây là quan điểm phê phán tương ứng với quan điểm của John
Locke. Ý thức-tri giác nhận trách nhiệm về mình những gì đã tạo ra sự
mâu thuẫn ở trong sự vật. Ý thức ấy biết phân biệt sự phản tư (phê
phán) của mình với sự lãnh hội (đơn giản) của mình; nhưng, nó chưa
biết rằng, trong chừng mực nó tự tiến hành việc phê phán đối với tri
giác của mình, thì sự thật hay chân lý “rơi vào bên trong nó” (chứ
không phải sự thật khách quan).


(221)Như thế, những thuộc tính dị biệt của sự vật là chỉ thuộc về tôi và
thuộc về cảm năng đa tạp của cái Tôi. Môi trường đúng thật, trong đó
những thuộc tính ấy tự phân biệt nhau, là cái Tôi. Sự vật là cái Một,
nhưng xuất hiện ra như là đa tạp (trắng, mặn, vuông ) là do sự phân
tán của nó ở trong môi trường này.


(222)Trong chừng mực là sự vật, thì sự vật nào cũng như sự vật nào,
không phân biệt với sự vật khác; do đó những tính quy định (những
thuộc tính) phải thuộc về bản thân sự vật (chứ không phải thuộc về chủ
thể). Những thuộc tính cũng phải dị biệt và đa tạp ngay trong sự vật,
nếu không, sự vật sẽ không được xác định tự-mình và cho-mình.


(223)“An sich”và “An ihm”: trong thuật ngữ của Hegel, ông phân biệt
giữa cái tự-mình (an-sich), tức bản tính bên trong hay tiềm năng của sự
vật với cái nơi nó (an ihm), tức cái thể hiện cái bản tính bên trong đối
với những sự vật khác và cho phép nó tương tác với những sự vật khác.
(Vd: con người tự mình là có bản tính suy tưởng (có những tư tưởng ở
bên trong và có năng lực suy tưởng), theo nghĩa đó, năng lực suy tưởng

là tự-mình, là tính quy định (Bestimmheit) của con người, phân biệt
với những tạo vật khác. Còn khi cái “tự mình” này được hiểu như cái gì
phải diễn ra hay phải “ở nơi nó” (an ihm), tức được thể hiện ra bằng lời
nói và hành động có suy nghĩ, thì bấy giờ suy tưởng là sự quy định
(Bestimmung) của con người. “Sự quy định” có thể “được thực hiện”
hoặc không. Nếu được thực hiện (tức có hành vi hoàn toàn hợp lý tính)
thì “sự quy định” ấy chính là “tính quy định”.

Một ví dụ khác: đứa bé tự-mình là có lý tính, nhưng chỉ mới là tiềm
năng, chưa “hiện thực” (wirklich), chưa “cho cái khác” hay chưa “nơi
nó” (an ihm). Trong trường hợp đó, cái “tự-mình” không khác gì cái
“cho-ta” (für uns), tức cái gì mới là tiềm năng và chưa được bản thân
nó biết đến, trái lại, chỉ mới được ta (triết gia hay người quan sát ở bên
ngoài) biết mà thôi. (Xem: Hegel: Khoa học Lô-gíc, I, tr. 112). (Xem
thêm: Chú giải dẫn nhập : 4.2).


(224)Trong tiến trình trước, ý thức là “môi trường” của những thuộc
tính khác nhau, thì bây giờ nó là hành vi hợp nhất những thuộc tính này
lại.


(225)Vậy chỉ còn những “chất liệu tự do” tương tác với nhau tại “một
chỗ”. Chúng không được hợp nhất với nhau trong đối tượng; việc hợp
nhất thành một sự vật cá biệt chỉ là công việc của chủ thể.


(226)Tính nhị nguyên giữa sự lãnh hội và sự phản tư bây giờ được tri
giác ở trong sự vật.


×