Tải bản đầy đủ (.pdf) (7 trang)

G. W. G. Hegel - HIỆN TƯỢNG HỌC TINH THẦN [Phần 2]: TRI GIÁC_2 pot

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (115.19 KB, 7 trang )

G. W. G. Hegel - HIỆN TƯỢNG HỌC
TINH THẦN
[Phần 2]: TRI GIÁC

[Nhưng] vì tính khác biệt cũng đồng thời có mặt một cách minh nhiên
cho người tri giác, nên cách hành xử của người tri giác là mang các yếu
tố khác biệt nhau ở trong sự lãnh hội vào mối quan hệ với nhau. |
Nhưng nếu trong tiến trình so sánh này nảy sinh một sự không ngang
bằng, thì đây không phải là một sự không đúng-sự thật (Unwahrheit)
của đối tượng, – bởi đối tượng, đối với người tri giác, là cái ngang bằng
với chính nó –, mà chỉ [có thể] là sự không-đúng sự thật của phía
[người] tri giác(217).
§ 117

Bây giờ ta hãy nhìn xem ý thức trải qua kinh nghiệm gì trong tiến trình
tri giác hiện thực của nó. Cho ta [đối với ta, người quan sát], kinh
nghiệm này đã được chứa đựng trong sự phát triển của đối tượng và
của thái độ hành xử của ý thức trước đối tượng cho tới nay; và như thế,
kinh nghiệm này chỉ là việc phát triển những mâu thuẫn đã hiện diện ở
trong đó. [Sự phát triển này diễn ra như sau]:

Đối tượng – được cái Tôi lãnh hội – tự trình diện ra một cách thuần túy
như cái Một; còn tôi cũng tri giác trong đó một thuộc tính. | Thuộc tính
là cái gì ở trong đối tượng có tính phổ biến, nên qua đó nó vượt ra khỏi
tính cá biệt. Vậy, [hình thái] tồn tại đầu tiên của bản chất khách quan
như là của cái Một đã không phải là sự tồn tại đúng thật của nó; song vì
lẽ đối tượng là cái đúng thật (das Wahre), nên sự không-đúng-sự thật
(Unwahrheit) là rơi vào nơi tôi [thuộc về phía tôi], và sự lãnh hội, như
thế, đã là không đúng. Do phải tính đến tính phổ biến [này] của thuộc
tính, tôi đúng ra phải nắm lấy cái bản chất khách quan trong tính toàn
bộ như một cộng đồng nói chung (ein Gemeinschaft überhaupt). Thêm


vào đó, bây giờ, tôi tri giác thuộc tính như là thuộc tính nhất định, đối
lập và loại trừ thuộc tính khác. Vậy là, trong thực tế, tôi đã lãnh hội
không đúng về bản chất khách quan, khi tôi đã xác định nó như là một
cộng đồng với những cái khác hay như là sự liên tục; và – để tính tới
tính quy định của thuộc tính – tôi lại phải phá vỡ tính liên tục và thiết
định bản chất khách quan như là “cái Một” loại trừ [cái khác](218).

Nơi cái Một bị tách rời này, tôi tìm thấy nhiều thuộc tính có cùng đặc
tính như thế, tức chúng không tác động mà dửng dưng với nhau; vậy,
tôi cũng đã không tri giác đối tượng một cách đúng đắn khi tôi đã lãnh
hội nó như một cái loại trừ, trái lại, nó, – như trước đó chỉ là sự liên tục
nói chung –, thì bây giờ là một “môi trường” cộng đồng phổ biến,
trong đó nhiều thuộc tính hiện diện, như là các tính phổ biến cảm tính,
mỗi cái tồn tại cho-mình, và với tư cách là cái được quy định, loại trừ
những cái khác. Nhưng, từ kết quả này, cái đơn giản và cái đúng thật
mà tôi tri giác cũng không phải là một “môi trường” phổ biến, mà là
thuộc tính cá biệt “cho-mình”; là cái, trong hình thái này, [một lần nữa]
vừa không phải là một thuộc tính, vừa không phải là một sự tồn tại nhất
định, vì nó không tồn tại nơi một cái Một lẫn không ở trong quan hệ với
những cái khác. Chỉ khi thuộc về cái Một, thuộc tính mới là một thuộc
tính, và chỉ trong quan hệ với những cái khác, nó mới được quy định
[như một thuộc tính nhất định]. Còn với tư cách là cái quan hệ thuần
túy này của chính mình với chính mình, nó vẫn chỉ là cái tồn tại cảm
tính nói chung, vì nó không còn chứa đựng tính cách của tính phủ định
nữa; và [hình thái] ý thức nắm lấy đối tượng của nó như là một cái tồn
tại cảm tính thì chỉ [trở lại] là [hình thái] của việc “cho rằng” (Meinen)
“của tôi”, nghĩa là, ý thức đã hoàn toàn đi ra khỏi việc tri giác và đã rút
lui lại vào trong chính nó. Nhưng bản thân cái tồn tại cảm tính và sự
“cho rằng” của tôi về “cái này” (trước đây) đều đã quá độ sang sự tri
giác, còn tôi thì bị ném ngược lại điểm xuất phát và lại một lần nữa bị

cuốn vào cùng cái vòng quay tròn tự thủ tiêu chính mình trong mọi yếu
tố và [tự thủ tiêu chính mình] như là cái toàn bộ.
§ 118

Vậy, ý thức tất yếu phải trải qua vòng quay tròn này một lần nữa,
nhưng đồng thời không phải trải qua cùng một kiểu như nó đã làm
trong lần thứ nhất. Lý do là vì, ý thức đã có kinh nghiệm trong việc tri
giác rằng: kết quả và cái đúng thật của hành vi tri giác là sự giải thể
(Auflưsung) của hành vi này, hay là sự phản tư của nó vào trong chính
nó, thoát ly khỏi cái đúng thật(219). Bằng cách này, ý thức đi đến chỗ
xác định rõ việc tri giác của nó có bản chất thực sự như thế nào, đó là:
tri giác không phải là một sự lãnh hội thuần túy và đơn giản, trái lại,
trong sự lãnh hội của mình, ý thức đồng thời cũng được phản tư ra
khỏi cái đúng thật và đi vào trong chính mình. Sự quay trở lại của ý
thức vào trong chính mình được trộn lẫn trực tiếp với sự lãnh hội thuần
túy [về đối tượng], – vì lẽ sự quay trở lại vào chính mình này đã tự cho
thấy là có tính bản chất [cốt yếu] đối với việc tri giác – làm biến đổi cái
đúng thật. Ý thức đồng thời nhận thức phương diện này [sự quay trở
lại, sự phản tư vào chính mình] như là phương diện của riêng nó và chịu
trách nhiệm về phương diện này; khi làm như thế, ý thức [hy vọng] sẽ
đạt được đối tượng đúng thật trong tính thuần túy của nó.

Như vậy bây giờ, trong trường hợp tri giác, cũng giống hệt như đã xảy
ra trong trường hợp của sự xác tín cảm tính [trước đây], có mặt cái
phương diện của ý thức bị đẩy trở ngược lại vào trong chính nó [xem
lại: §100], nhưng trước hết, không có nghĩa giống như điều này đã xảy
ra trong trường hợp xác tín cảm tính, tức không phải như thể tính chân
lý [sự thật, Wahrheit] của tri giác là rơi vào bên trong ý thức, trái lại, ý
thức nhận rõ rằng chính sự không phải-chân lý (Unwahrheit) xuất hiện
trong tri giác mới là cái rơi vào bên trong nó. Nhưng, chính nhận thức

này làm cho ý thức đồng thời có năng lực vượt bỏ (aufheben) sự
không phải-chân lý này: ý thức phân biệt sự lãnh hội của nó về cái đúng
thật với sự không phải-chân lý của sự tri giác của nó, sửa chữa sự
không phải-chân lý này, và trong chừng mực ý thức tự mình ra tay sửa
chữa, thì tính chân lý, với tư cách là tính chân lý của sự tri giác, lại
đương nhiên rơi vào trong chính ý thức. Vậy, sự hành xử của ý thức
được ta xem xét bây giờ đây, có đặc điểm là: ý thức không còn đơn
thuần tri giác nữa, mà trái lại, cũng đã có ý thức về sự phản tư của nó
vào trong chính nó, và tách rời sự phản tư này ra khỏi bản thân sự lãnh
hội đơn giản(220). [Sự vận hành như sau]:
§ 119

Trước tiên, tôi tri giác sự vật như một cái Một và phải bám giữ chặt sự
vật trong sự quy định đúng thật này. | Nếu trong tiến trình vận động
của tri giác có điều gì tỏ ra mâu thuẫn với quy định ấy, thì tôi nhận rằng
đó là [do] sự phản tư của tôi. Bây giờ, trong tri giác, cũng có mặt nhiều
thuộc tính khác nhau, có vẻ là các thuộc tính của [bản thân] sự vật; thế
nhưng [vì] sự vật là cái Một, nên ta ý thức rằng tính dị biệt (Verschie-
denheit) này – tính dị biệt qua đó sự vật sẽ ngừng không còn là cái Một
nữa – là rơi vào trong ta [thuộc về phía ta]. Như vậy, trong thực tế, sự
vật này chỉ có màu trắng cho mắt ta; chỉ có vị mặn cho lưỡi ta, và cũng
chỉ có hình lập phương là cho xúc giác ta và v.v Toàn bộ tính dị biệt
của các mặt này của sự vật không do ta rút ra từ sự vật, mà từ chính ta,
và chúng hoàn toàn tách rời nhau bằng cách ấy cho ta, vì mắt là hoàn
toàn khác với lưỡi v.v Như thế chính ta là cái môi trường phổ biến,
trong đó các yếu tố như thế được tách rời nhau và mỗi cái tồn tại cho
riêng mình (für sich). Vậy, qua việc ta xem tính quy định là một môi
trường phổ biến như là đến từ sự phản tư của ta, ta bảo tồn (erhalten)
tính ngang bằng với chính mình của sự vật và tính chân lý của sự vật
như là một cái Một(221).

§ 120

Tuy nhiên, các mặt dị biệt này – mỗi mặt được xem là tồn tại “cho-
mình” ở trong môi trường phổ biến do ý thức chịu trách nhiệm – lại đều
được xác định một cách đặc thù; trắng chỉ là trắng trong sự đối lập với
đen, và v.v ; và sự vật là cái Một chính là vì nó đối lập với các sự vật
khác. Nhưng nó không phải như là một cái Một loại trừ những cái khác,
bởi cái Một là mối liên hệ phổ biến của mình với chính mình, và sự kiện
nó là cái Một thực ra làm cho nó ngang bằng với mọi cái khác; [do đó]
chính thông qua tính được quy định của nó mà sự vật mới loại trừ
những sự vật khác(222). Cho nên bản thân những sự vật là được xác
định tự mình và cho mình: chúng có các thuộc tính nhờ đó chúng tự
phân biệt với những cái khác. Vì lẽ thuộc tính là thuộc tính riêng của sự
vật, hay là, một tính quy định trong bản thân sự vật, nên sự vật có
nhiều thuộc tính. Vì, thứ nhất, sự vật là cái đúng thật, nó tồn tại tự
mình (an sich selbst); và cái gì tồn tại nơi nó (an ihm) thì tồn tại như là
cái bản chất của riêng nó, không tính tới những sự vật khác(223). | Từ
đó, thứ hai là, các thuộc tính nhất định [được xác định] không chỉ vì
những sự vật khác hay cho những sự vật khác, mà là nơi bản thân sự
vật (an ihm selbst). | Tuy nhiên, chúng chỉ là các thuộc tính nhất định
nơi sự vật (an ihm) khi chúng là nhiều thuộc tính tự phân biệt với
nhau. | Và, thứ ba, trong khi chúng tồn tại như thế trong cái vật-tính
(Dingheit), chúng tồn tại tự mình và cho mình, dửng dưng với nhau. Do
đó, trong tính chân lý, chính bản thân sự vật là trắng, và cũng là lập
phương, và cũng là mặn v.v , hay nói khác đi, sự vật là cái CŨNG hay
cái “môi trường” phổ biến, trong đó nhiều thuộc tính tồn tại bên ngoài
nhau, không đụng chạm và không thủ tiêu lẫn nhau; và nếu được “nắm
lấy” như vậy, thì sự vật được nắm lấy như cái đúng thật.


×