Tải bản đầy đủ (.pdf) (9 trang)

G. W. G. Hegel - HIỆN TƯỢNG HỌC TINH THẦN [Phần 2]: TRI GIÁC_1 ppt

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (152.41 KB, 9 trang )

G. W. G. Hegel - HIỆN TƯỢNG HỌC
TINH THẦN
[Phần 2]: TRI GIÁC

HAY LÀ
SỰ VẬT VÀ SỰ LỪA DỐI [CỦA NÓ]

§ 111

Sựxác tín trực tiếp không chiếm lĩnh đượccái đúng thật, vì sự thật của
nó là cái phổ biến, trong khi nó lại muốn nắm lấy cái Này [cá biệt].
Ngược lại, tri giác nắm lấy cái đang tồn tại đối với nó, như là cái phổ
biến. Cũng như tính phổ biến là nguyên tắc của tri giác nói chung, các
yếu tố tự phân biệt trực tiếp trong chính nó cũng đều có tính phổ biến:
cái Tôi như là một cái Tôi phổ biến; và đối tượng cũng là một đối tượng
phổ biến(203). Nguyên tắc này là được hình thành nên (entstanden)
cho ta [người theo dõi tiến trình kinh nghiệm], do đó, phương cách ta
nắm lấy trong tri giác không còn là một cái gì đơn thuần diễn ra cho ta
[một chuỗi bất tất các hành vi lãnh hội] như trong sự xác tín cảm tính
nữa, mà là một sự tiếp thu tất yếu [một quá trình tất yếu có tính lô-
gíc](204). Cùng với sự ra đời của nguyên tắc này, cả hai yếu tố cũng
đồng thời trở thành tồn tại; chúng chỉ tách rời ra khỏi nhau ở trong sự
xuất hiện ra của chúng như là hiện tượng (Erscheinung) [cho cái biết],
đó là: một yếu tố tồn tại như là tiến trình vận động của việc chỉ ra; yếu
tố kia cũng là cùng một tiến trình ấy nhưng như là một [sự kiện] đơn
giản; yếu tố trước là hành vi tri giác, yếu tố sau là đối tượng [được tri
giác]. Về bản chất, đối tượng là giống hệt như tiến trình, [chỉ có điều],
tiến trình là sự triển khai [phô bày ra] và là sự phân biệt của hai yếu tố
[tham gia vào tiến trình tri giác], còn đối tượng cũng chính là các yếu tố
ấy nhưng được tập hợp chung lại [như một toàn bộ được lãnh hội]. Cho
ta [người quan sát] hay là tự-mình, cái phổ biến, – với tư cách là


nguyên tắc, – là cái bản chất của tri giác; và trái ngược với sự trừu
tượng này, cả hai yếu tố được phân biệt trên – cái tri giác và cái được
tri giác – lại là những cái không có tính bản chất [không cốt yếu](205).
Nhưng, trong thực tế, vì bản thân hai yếu tố này đều là cái phổ biến hay
cái bản chất cả, nên cả hai đều có tính bản chất; tuy nhiên trong khi
chúng quan hệ với nhau như là giữa các cái đối lập, thì chỉ có một yếu
tố là có thể có tính bản chất ở trong mối quan hệ [tạo nên tri giác] mà
thôi, và việc phân biệt cái bản chất với cái không-bản chất phải được
chia đều ra nơi chúng. Một bên được xác định như cái [sự kiện] đơn
giản – tức đối tượng – là cái bản chất, bất kể nó có được tri giác hay
không; còn hành vi tri giác – như là tiến trình vận động – là yếu tố bất
ổn định, có thể có, có thể không, và là cái không-bản chất(206).
§ 112

Bây giờ, đối tượng này cần được xác định rõ hơn, và sự xác định [định
nghĩa] phải được phát triển ngắn gọn từ kết quả đã đạt được; một sự
phát triển nhiều chi tiết hơn không thuộc về chỗ này. Vì lẽ nguyên tắc
của đối tượng, tức cái phổ biến, – trong tính đơn giản của đối tượng –
là một nguyên tắc được trung giới, nên đối tượng phải diễn tả cái bản
tính tự nhiên [được trung giới] này nơi chính bản thân nó. | Bằng cách
làm như vậy, đối tượng tự cho thấy mình là SỰ VẬT CÓ NHIỀU THUỘC
TÍNH (DAS DING VON VIELEN EIGENSCHAF-TEN). Sự phong phú của cái
biết cảm tính là thuộc về tri giác chứ không phải thuộc về sự xác tín
trực tiếp, là nơi sự phong phú chỉ đơn thuần là trò phụ diễn
(Beiherspielen) [ngẫu nhiên bất tất], vì chỉ tri giác mới có sự phủ định,
sự khác biệt, hay tính đa tạp bên trong bản chất của nó(207).
§ 113
[I. Khái niệm đơn giản về sự vật:]

Do đó, cái này được thiết định như cái không phải-này hay như một cái

này bị thủ tiêu [vượt bỏ]; song [kết quả] không phải là cái hư vô, mà là
một cái hư vô nhất định, hay là một cái hư vô của một nội dung, tức
của CÁI này. Qua quá trình ấy, bản thân cái [nhân tố] cảm tính vẫn còn
có mặt, nhưng không phải theo cách được giả định trong sự xác tín trực
tiếp nữa, không phải như cái cá biệt chỉ được “cho rằng”, mà như là cái
phổ biến, hay như là cái sẽ được xác định như là THUỘC TÍNH(208). Sự
vượt bỏ (das Aufheben) diễn tả ý nghĩa kép [nhân đôi] đúng thực của
nó như ta đã thấy nơi cái phủ định: vừa là một sự phủ định (ein
Negieren) và đồng thời là một sự bảo lưu (ein Aufbewahren); cái hư
vô, như là cái hư vô của cái này, bảo lưu tính trực tiếp; do vậy, bản thân
nó vẫn là cảm tính, nhưng lại là một tính trực tiếp phổ biến
(allgemeineUnmit-telbarkeit)(209).

Nhưng, tồn tại là một cái phổ biến nhờ có bên trong nó sự trung giới
hay là cái phủ định. | Khi cái tồn tại diễn tả(210) điều này trong tính
trực tiếp của nó, nó là một thuộc tính nhất định, được phân biệt. Kết
quả là có nhiều thuộc tính như thế được thiết định đồng thời với nhau,
thuộc tính này là cái phủ định [sự phân biệt] đối với thuộc tính khác.
Bởi chúng được diễn tả trong tính đơn giản của cái phổ biến, nên các
tính quy định này (Bestimmheiten) – thật ra, chúng chỉ thực sự trở
thành các thuộc tính là còn phải nhờ có thêm một sự quy định sau này
nữa(211) – [chỉ] tự quan hệ với chính mình, là dửng dưng đối với nhau,
mỗi cái tồn tại cho riêng mình, độc lập(212) với những cái khác còn lại.
Tuy nhiên, bản thân tính phổ biến đơn giản, ngang bằng với chính
mình [tự-đồng nhất], đến lượt mình, thì lại phân biệt và thoát ly khỏi
các thuộc tính nhất định này của nó; nó là sự tự quan hệ thuần túy của
mình với chính mình, hay là cái “môi trường” (Medium), trong đó mọi
tính quy định trên đây đều có mặt, như một nhất thể đơn giản, trong
đó các tính quy định ấy thâm nhập vào nhau nhưng không đụng chạm
lẫn nhau, và chỉ vì đều tham gia vào trong tính phổ biến này nên chúng

dửng dưng đối với nhau, mỗi đặc điểm tồn tại cho riêng mình.

Cái “môi trường” phổ biến trừu tượng này – có thể được gọi là “vật-
tính” (Dingheit) nói chung hay là “bản chất thuần túy” – không khác gì
cái Ở đây và cái Bây giờ đã tự chứng tỏ cho thấy [xem chương I] là một
tập hợp đơn giản của cái đa thể, song cái nhiều này [trong cấp độ tri
giác hiện nay], do tính được quy định của nó, là bản thân những cái
phổ biến đơn giản. Hạt muối này là cái Ở đây đơn giản, và đồng thời là
đa tạp: nó là trắng, và cũng là mặn, cũng có hình lập phương, lại cũng
có một trọng lượng riêng và v.v Tất cả các thuộc tính đa tạp này tồn tại
trong một cái Ở đây đơn giản duy nhất, do đó, là nơi chúng thâm nhập
vào nhau; nhưng không thuộc tính nào trong chúng lại có một cái Ở đây
khác với các thuộc tính khác, trái lại, mỗi cái có mặt khắp nơi trong cùng
một cái Ở đây, là nơi cái khác cũng cùng tồn tại. | Và đồng thời, tuy
không bị chia cắt bởi nhiều cái Ở đây khác nhau, chúng không tác động
lẫn nhau trong sự thâm nhập này; cái trắng không tác động hay biến đổi
cái vuông; cả hai không tác động cái mặn và v.v , trái lại, vì bản thân
mỗi cái là quan hệ đơn giản của mình với chính mình, nên nó để mặc
các cái khác và chỉ quan hệ với những cái còn lại thông qua một cái
CŨNG dửng dưng. Vậy, chính cái CŨNG này là bản thân cái phổ biến
thuần túy, hay là, cái “môi trường”, cái “vật tính” tập hợp tất cả
chúng lại bằng cách ấy(213).
§ 114

Trong mối quan hệ vừa nảy sinh trên đây chỉ mới có tính chất của tính
phổ biến khẳng định (positive Allgemeinheit) [mặt khẳng định của tính
phổ biến] là được quan sát và phát triển; nhưng còn một mặt nữa cần
phải xét tới [mặt phủ định]. Mặt phủ định này là: nếu nhiều thuộc tính
đa tạp là hoàn toàn dửng dưng với nhau và nếu chúng chỉ đều hoàn
toàn tự quan hệ với chính mình thôi, ắt chúng không phải là các thuộc

tính nhất định (bestimmt) [được quy định, xác định]; bởi chúng chỉ có
thể như vậy trong chừng mực chúng tự phân biệt với nhau và tự quan
hệ với các thuộc tính khác như là với các cái đối lập của chúng. Thế
nhưng, nếu dựa theo tính đối lập nhau này thì chúng lại không thể cùng
tồn tại chung trong cái nhất thể đơn giản của cái “môi trường” của
chúng [trước đây] nữa, – sự thống nhất của “môi trường” này cũng
thiết yếu [có tính bản chất] đối với chúng giống như sự phủ định. | Vậy,
[tiến trình] phân biệt của nhất thể này, – trong chừng mực nhất thể ấy
không phải là một nhất thể dửng dưng mà là một nhất thể loại trừ và
phủ nhận sự vật khác, – phải rơi ra bên ngoài cái “môi trường” đơn giản
này; và vì thế, “môi trường” này không chỉ đơn thuần là một cái CŨNG
[nói trên đây], tức một nhất thể dửng dưng, mà còn là cái MỘT, tức cái
nhất thể loại trừ [cái khác](214). Cái MỘT là yếu tố của sự phủ định, –
như là cái tự quan hệ với chính mình một cách đơn giản, và loại trừ sự
vật khác – qua đó, VẬT TÍNH (DIE DINGHEIT) ĐƯỢC QUY ĐỊNH NHƯ LÀ
SỰ VẬT (DING). Trong thuộc tính [của một sự vật], sự phủ định [có hình
thái] như là một sự quy định; sự quy định này trực tiếp là một với tính
trực tiếp của tồn tại [của sự vật], song tính trực tiếp này đến lượt nó, –
nhờ thông qua sự thống nhất nói trên với sự phủ định – nên là tính phổ
biến. | Tuy nhiên, sự phủ định, khi được giải phóng khỏi sự thống nhất
này với cái đối lập, tồn tại như là cái Một, và tồn tại tự-mình và cho-
mình (an und für sich selbst).
§ 115

Các yếu tố này gộp chung lại mới hình thành hoàn tất SỰ VẬT như là cái
đúng thật (das Wahre) của [tiến trình] tri giác, trong chừng mực được
phát triển ở đây với mức độ cần thiết. Đó là:

1. tính phổ biếnthụ động, dửng dưng, tức cái CŨNG của nhiều thuộc
tính đa tạp, hay nói đúng hơn, của các “chất liệu” (Materien)(215);

2. sự phủ định, cũng ở trong hình thái đơn giản tương tự; hay là cái
MỘT, loại trừ các thuộc tính đối lập, và
3. bản thân nhiều thuộc tính đa tạp, mối quan hệ của hai yếu tố đầu
tiên này; hay sự phủ định – như nó đang quan hệ với yếu tố (Element)
dửng dưng, và triển khai trong đó thành một số lượng các cái khác biệt;
tụ điểm của tính cá biệt ở trong môi trường của sự tự tồn (Bestehen)
tỏa chiếu thành tính đa thể. Trong chừng mực các cái khác biệt này
cùng thuộc về “môi trường” dửng dưng, thì bản thân chúng cũng có
tính phổ biến, chỉ quan hệ với chính mình và không tác động đến nhau;
nhưng xét về phương diện: chúng cùng thuộc về sự thống nhất [nhất
thể] phủ định, chúng đồng thời lại loại trừ [các thuộc tính khác]; nhưng
tất yếu có mối quan hệ này của sự đối lập đối với các thuộc tính ở cách
xa cái CŨNG của CHÚNG. Vậy, tính phổ biến cảm tính, hay sự thống
nhất trực tiếp của cái tồn tại với cái phủ định chỉ trở thành một THUỘC
TÍNH, khi cái Một và tính phổ biến thuần túy được phát triển từ nó và
được phân biệt với nhau, cũng như khi tính phổ biến cảm tính nối kết
chúng lại [tính phổ biến thuần túy khẳng định và cái Một phủ định]. |
Chính mối quan hệ này giữa tính phổ biến với các yếu tố bản chất thuần
túy mới là cái hoàn tất SỰ VẬT(216).
§ 116
[II. Sự tri giác đầy mâu thuẫn về sự vật:]

Vậy, đó là phương cách mà bây giờ SỰ VẬT của tri giác được tạo nên; và
ý thức được xác định như là đang ở cấp độ tri giác, trong chừng mực
SỰ VẬT này là đối tượng của nó. | Ý thức chỉ đơn thuần “nắm lấy” đối
tượng [nehmen, lat: capio ®per-cipio ®wahr-nehmen: nắm lấy cái đúng
thật = tri giác] và hành xử như là sự lãnh hội thuần túy (reines
Auffassen), và qua đó cái được mang lại cho ý thức là cái đúng thật
(das Wahre). Nếu bản thân ý thức, trong hành vi “nắm lấy” này, lại làm
thêm một việc gì khác, thì do việc thêm vào hay rút bớt đi điều gì, nó

sẽ làm biến đổi sự thật. Nhưng, vì đối tượng là cái đúng thật và là cái
phổ biến, cái ngang bằng với chính nó, còn ý thức, ngược lại, là cái khả
biến và không-bản chất, nên điều có thể xảy ra cho ý thức là nó lãnh hội
đối tượng không đúng và tự lừa dối mình. Người tri giác có ý thức về
khả năng xảy ra sự lừa dối [nhầm lẫn], vì ở trong tính phổ biến vốn là
nguyên tắc của tri giác, bản thân cái tồn tại-khác [của cái phổ biến]
cũng trực tiếp có mặt cho ý thức, nhưng có mặt như là cái hư vô, cái bị
thủ tiêu. Tiêu chuẩn của người tri giác về tính chân lý, do đó, là sự
ngang bằng-với-chính-mình của đối tượng (die Sichselbst-gleichheit),
nên thái độ hành xử của người ấy là lãnh hội đối tượng như là cái ngang
bằng [đồng nhất] với-chính-mình.

×