Tải bản đầy đủ (.pdf) (8 trang)

G. W. G. Hegel - HIỆN TƯỢNG HỌC TINH THẦN [Phần 5]: SỰ ĐỘC LẬP-TỰ CHỦ_2 docx

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (119.65 KB, 8 trang )

G. W. G. Hegel - HIỆN TƯỢNG HỌC TINH THẦN
[Phần 5]: SỰ ĐỘC LẬP-TỰ CHỦ VÀKHÔNG ĐỘC
LẬP-TỰ CHỦ CỦA TỰ-Ý-THỨC; LÀM CHỦ VÀ
LÀM NÔ (318)

§ 187

Tuy nhiên, sự tự thể hiện chính mình như là sự trừu tượng thuần túy
của Tự-ý thức là nằm ở chỗ: chứng tỏ chính mình như là một sự phủ
định thuần túy đối với hình thái [hay phương thức tồn tại như] đối
tượng [khách quan] của mình; hay chứng tỏ rằng mình không bị ràng
buộc nơi một sự hiện hữu nhất định nào, không hề bị cột chặt với bất
kỳ tính cá biệt phổ biến nào của sự hiện hữu (Dasein) nói chung, nghĩa
là không bị gắn liền với sự sống. Tiến trình thể hiện này là việc làm nhị
bội: việc làm về phía cái khác và việc làm về phía chính mình. Trong
chừng mực đó là việc làm của cái khác [cái Tự-ý thức hay cá thể đối
lập], mỗi phía nhắm vào mục đích là cái chết của phía bên kia. Nhưng
trong việc này cũng thể hiện [loại] việc làm thứ hai, việc làm bởi chính
mình, vì cái trước đã bao hàm việc nó đặt cả mạng sống riêng của nó
vào đó. Như vậy, mối quan hệ (Verhälnis) [hay “tình huống”] của hai
Tự-ý thức được quy định theo kiểu chúng tự chứng tỏ (bewähren) và
chứng tỏ cho nhau thông qua cuộc chiến đấu mất còn.

Chúng phải đi vào cuộc chiến đấu này, bởi chúng phải nâng sự xác tín
của chính chúng như là tồn tại cho-mình lên cấp độ của sự thật nơi cái
khác cũng như nơi chính bản thân chúng. Và chỉ có việc liều mạng sống
mới bảo tồn được tự do; và chỉ có như thế mới chứng tỏ được rằng đối
với Tự-ý thức, bản chất của nó không phải là sự tồn tại [trần trụi],
không phải đơn thuần là phương thức trực tiếp trong đó nó xuất hiện
ra [như lúc đầu], không phải là sự đắm chìm trong việc triển khai sự
sống mà đúng hơn là, không có gì nơi nó mà không thể được nó xem


như là một yếu tố đang tiêu vong; rằng Tự-ý thức chỉ là sự tồn tại-cho-
mình thuần túy. Một cá thể [cá nhân] đã không dám liều mạng sống,
tất nhiên, vẫn có thể được thừa nhận như một “con người”
(Person)(329), nhưng cá nhân ấy đã không đạt đến sự thật của sự được
thừa nhận này như là một Tự-ý thức độc lập-tự chủ. Cũng thế, giống
như mỗi bên đều liều mạng sống của chính mình, mỗi bên phải nhắm
vào cái chết của bên kia; bởi vì mỗi bên đánh giá bên kia không khác gì
chính mình; bản chất của mình thể hiện ra cho mình trong hình thức
của “cái khác”; nó đang ở bên ngoài chính mình và phải thủ tiêu cái
“tồn tại-ở-bên-ngoài-mình” này đi. | “Cái khác” là một ý thức còn sống
trực tiếp trong môi trường của tồn tại đơn thuần (seiend) còn bị ràng
buộc và gắn chặt với nhiều mối quan hệ đa tạp, [trong khi] nó phải trực
nhận (anschauen) cái tồn tại-khác này của nó như là cái tồn tại cho-
mình thuần túy hay như là sự phủ định tuyệt đối(330).
§ 188

Thế nhưng, sự chứng tỏ [sự thử thách] (Bewährung) bằng cái chết sẽ
thủ tiêu sự thật lẽ ra phải là kết quả từ đó [đối với cả hai phía] và cùng
với sự thật, thủ tiêu cả sự xác tín về mình nói chung. | Bởi lẽ, cũng như
mạng sống là sự thiết định [hay đặt định] [xem: Chú giải 3.4.3.2a (chú
thích 1)] (Position) tự nhiên của ý thức như là sự độc lập nhưng không
có tính phủ định tuyệt đối; thì cái chết là sự “phủ định” (Negation) tự
nhiên của ý thức, [nhưng] như là sự phủ định không có sự độc lập, và
như thế, sự phủ định ấy vẫn không đạt được ý nghĩa đòi hỏi của việc
thừa nhận [đích thực]. Tuy rằng thông qua cái chết, sự xác tín đã hình
thành, cho thấy cả hai đều dám liều mạng sống và xem thường cái chết
nơi chính mình và nơi cái khác, nhưng sự xác tín này lại không dành cho
những ai đứng vững trước cuộc chiến đấu này. Họ thủ tiêu chính ý thức
của họ vốn đã được đặt vào trong yếu tố xa lạ này của sự tồn tại tự
nhiên [nơi cái khác]; nói khác đi, họ thủ tiêu chính mình và bị thủ tiêu

với tư cách là cái đối cực muốn tìm kiếm sự tồn tại cho-mình. Nhưng,
cùng với điều ấy, từ sự tương tác, trao đổi qua lại này, cũng sẽ biến mất
luôn cả cái yếu tố bản chất, đó là việc phân hóa ra thành những đối cực
với các đặc điểm đối lập nhau; và cái [hạn từ] trung giới [Tự-ý thức] đổ
sập vào trong một nhất thể chết cứng, là cái cũng phân rã ra thành
những đối cực, nhưng chúng chết cứng [không có sự sống], chỉ đơn
thuần tồn tại trực tiếp [trần trụi] chứ không đối lập nhau. | Và cả hai
[đối cực] ấy sẽ không còn cho và nhận lại từ nhau thông qua ý thức,
trái lại chúng buông rời nhau ra một cách dửng dưng như [giữa] các sự
vật. Việc làm này của chúng là sự phủ định trừu tượng, chứ không phải
sự phủ định [mang đặc điểm] của Ý thức; [bởi] Ý thức [bao giờ cũng]
thủ tiêu (aufhebt) [vượt bỏ] theo kiểu bảo lưu và duy trì cái bị thủ tiêu
và bởi đó, sống sót qua việc bị thủ tiêu của nó(331).
§ 189

Trong kinh nghiệm này, Tự-ý thức nhận ra rằng mạng sống [sự sống]
cũng có tính bản chất đối với nó giống như Tự-ý thức thuần túy. Trong
Tự-ý thức trực tiếp, cái Tôi đơn giản là đối tượng tuyệt đối, tuy nhiên,
đối tượng này – cho-ta hay là tự-mình – là sự trung giới tuyệt đối và có
sự độc lập tự tồn (die bestehende Selbstständigkeit) làm yếu tố bản
chất. Sự phân rã [giải thể] của cái nhất thể đơn giản này là kết quả của
kinh nghiệmđầu tiên; qua đó, một Tự-ý thức thuần túy được thiết định
và [bên cạnh đó] là một ý thức không tồn tại-cho mình một cách thuần
túy mà tồn tại cho một cái khác, tức, như là một ý thức tồn tại đơn
thuần trực tiếp [trần trụi] (seiend) hay là ý thức trong hình thái của vật
tính. Cả hai yếu tố đều có tính bản chất; [nhưng] vì thoạt đầu chúng
không ngang bằng [không đồng nhất] và đối lập nhau, và sự phản tư
của chúng vào trong sự thống nhất chưa hình thành; nên chúng hiện
hữu như hai hình thái đối lập nhau của ý thức. | Một hình thái là ý
thức độc lập-tự chủ và bản chất của nó là tồn tại-cho mình; còn hình

thái kia là không độc lập-tự chủ và bản chất của nó là sự sống [mạng
sống] hay là tồn tại cho-một cái khác. | Cái trước là CHỦ (der HERR);
cái sau là NÔ (der KNECHT)(332).
§ 190

[III. CHỦ và NÔ:]

CHỦlà ý thức tồn tại cho-mình, nhưng không còn đơn thuần là Khái
niệm [phổ biến] về một ý thức tồn tại-cho-mình mà chính là ý thức tồn
tại cho-mình được trung giới với chính mình thông qua một ý thức
khác, tức thông qua một ý thức mà bản chất của ý thức này là gắn chặt
với sự tồn tại độc lập-tự chủ, hay với vật-tính nói chung. CHỦ quan hệ
với cả hai yếu tố này: với một sự vật, xét như sự vật, là đối tượng của
sự ham muốn; và với một ý thức mà bản chất là vật-tính. | Và trong khi
CHỦ a/ với tư cách là Khái niệm về Tự-ý thức có mối quan hệ trực tiếp
của sự tồn tại-cho-mình(333), nhưng đồng thời b/ với tư cách là sự
trung giới, hay là một sự tồn tại cho-mình chỉ “tồn tại cho-mình” thông
qua một cái khác, do đó, CHỦ vừa a/ quan hệ trực tiếp với cả hai yếu
tố(334), vừa b/ quan hệ một cách gián tiếp [qua trung giới] với mỗi cái
thông qua cái khác. CHỦ quan hệ với NÔ một cách gián tiếp thông qua
trung giới của cái tồn tại [“sự vật”] độc lập vì chính cái tồn tại này giữ
chặt NÔ trong sự nô lệ; đó là xiềng xích của nó mà nó đã không thể trút
bỏ được trong cuộc đấu tranh và vì thế, tự chứng tỏ mình là không độc
lập-tự chủ, [bởi] nó có sự độc lập-tự chủ của mình trong [hình thái của]
vật-tính. Trong khi đó ngược lại, CHỦ là quyền lực trên cái tồn tại [“sự
vật”] này, vì nó đã chứng tỏ trong cuộc đấu tranh rằng đối với nó, tồn
tại này chỉ có giá trị như một cái [bị] phủ định. | Và trong khi CHỦ là
quyền lực đứng trên sự tồn tại, còn sự tồn tại lại là quyền lực đứng trên
cái khác [NÔ], nên kết quả là: CHỦ có cái khác [NÔ] dưới quyền lực của
mình [bắt NÔ phải lệ thuộc vào mình]. Cũng cùng một phương cách

như thế, CHỦ quan hệ với sự vật một cách gián tiếp thông qua trung
giới của NÔ. | NÔ, với tư cách là Tự-ý thức nói chung, cũng quan hệ với
sự vật một cách phủ định và thủ tiêu sự độc lập của sự vật; thế nhưng
vì sự vật đồng thời là độc lập-tự chủ đối với NÔ, do đó bằng tất cả sự
phủ định, NÔ vẫn không thể đi xa đến chỗ thanh toán dứt khoát, tức là
hư vô hóa sự vật, mà nói cách khác, NÔ chỉ lao động với sự vật thôi
[bearbeiten: làm việc nhào nặn sự vật](335).

Ngược lại, đối với CHỦ, nhờ thông qua tiến trình trung giới này, mối
quan hệ trực tiếp trở thành sự phủ định thuần túy đối với sự vật; nói
khác đi, [chỉ] là sự hưởng thụ. | Những gì sự ham muốn đã không
thành công thì bây giờ thành công, đó là thanh toán hoàn toàn sự vật
và đạt được sự thỏa mãn trong việc hưởng thụ nó. Điều này đã không
đạt được bằng sự ham muốn [đơn độc] là bởi do tính độc lập-tự chủ
của sự vật; nhưng nay CHỦ đã đẩy NÔ vào giữa CHỦ và sự vật, nên qua
đó, chỉ quan hệ với mặt không-độc lập-tự chủ của sự vật và hưởng thụ
nó một cách thuần túy; còn mặt độc-lập-tự chủ của sự vật thì CHỦ
nhường lại cho NÔ, kẻ đang lao động [nhào nặn, tạo hình thể] với sự
vật(336).
§ 191

Trong hai yếu tố này, CHỦ đạt được sự thừa nhận [hiện thực] thông
qua một ý thức khác; bởi trong các yếu tố này, cái ý thức-khác thiết
định mình như là cái không-bản chất [đến hai lần]: một mặt là trong
việc phải lao động với sự vật; mặt khác là trong sự lệ thuộc vào một
hiện hữu (Dasein) nhất định; trong cả hai trường hợp, nó không thể trở
thành chủ nhân đối với cái tồn tại [của sự vật] và không đạt đến được
sự phủ định tuyệt đối [sự vật]. Vậy ở đây đã có mặt một yếu tố này của
sự thừa nhận, đó là: cái ý thức khác tự phủ định cái tư cách tồn tại-cho-
mình, và qua đó, tự bản thân làm những gì cái [ý thức] thứ nhất làm để

chống lại nó. Yếu tố khác cũng có mặt như thế: việc làm của cái thứ hai
chính là việc làm riêng của cái thứ nhất, vì, những gì NÔ làm thực ra là
việc làm của CHỦ. | CHỦ chỉ tồn tại-cho-mình, đó là bản chất của CHỦ;
CHỦ là quyền lực phủ định thuần túy, đối với CHỦ, sự vật là hư vô và vì
thế, CHỦ là việc làm có tính bản chất và thuần túy trong mối quan hệ
này, còn việc làm của NÔ là không thuần túy, không có tính bản chất.
Thế nhưng, để có sự thừa nhận đích thực thì vẫn còn thiếu [ở đây] một
yếu tố, đó là: những gì CHỦ làm đối với cái khác thì cũng là việc làm đối
với chính mình và những gì NÔ làm đối với mình thì cũng làm đối với cái
khác [Chủ]. Vì lý do đó, qua tiến trình trên chỉ mới cho ra đời một sự
thừa nhận một chiều và không ngang bằng(337).

×