Tải bản đầy đủ (.docx) (62 trang)

Mức độ biết đến của nhóm sinh viên đối với hiện tượng đồng tính luyến ái và mức độ phổ biến qua điều tra tần suất gặp

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (565.13 KB, 62 trang )

Mức độ biết đến của nhóm sinh viên đối với hiện tượng đồng tính luyến ái và
mức độ phổ biến qua điều tra tần suất gặp :
* Điều kiện kinh tế xã hội ở Việt Nam và những ảnh hưởng tới cuộc sống cũng
như nhận thức của sinh viên:
Nền kinh tế thị trường đã đem lại những biến đổi cho đời sống người dân
nước ta về mọi mặt. Không những được đảm bảo về mặt vật chất, các thành viên
xã hội còn có cơ hội phát triển về tri thức cũng như hưởng thụ những giá trị tinh
thần. Tuy nhiên sự phát triển nào cũng mang trong mình yếu tố tích cực và tiêu
cực. Đời sống sung túc hơn nhưng dường như những nền tảng đạo đức, văn hoá xã
hội lại dần mai một. Tệ nạn xã hội ngày càng có xu hướng tăng về số lượng cũng
như độ tinh vi. Ma tuý, mại dâm..đang làm đau đầu những nhà quản lý, lập pháp và
hành pháp.
Sự phức tạp của thực tế khiến cho những thành viên của xã hội Việt Nam
hiện đại đặc biệt là giới thanh niên - sinh viên có lối sống cũng như cách nhìn
nhận, đánh giá khác với thế hệ cha anh. Sinh viên Việt Nam ngày càng năng động
hơn. Không chỉ học trên giảng đường, họ dấn mình vào cuộc sống để thu thập tri
thức thực tế. Những quan niệm cũng như nhận thức của sinh viên với các hiện
tượng xã hội bị chi phối bởi cách nhìn hiện đại, bởi văn hoá nước ngoài. Sự phát
triển của hiện tượng đồng tính luyến ái cũng là một hệ quả của biến đổi kinh tế -
văn hoá - xã hội. Là nhóm xã hội có trình độ tri thức cao đồng thời trưởng thành
trong điều kiện phát triển về kinh tế cũng như phong phú về văn hoá, sinh viên
chắc chắn sẽ có hiểu biết cũng như nhìn nhận và đánh giá về đồng tính luyến ái
theo cách riêng của mình.
2.1 Mức độ biết đến hiện tượng đồng tính luyến ái của sinh viên
Đồng tính luyến ái đã xuất hiện từ rất lâu ở Việt Nam nhưng trước đây do
điều kiện đất nước trong chiến tranh và dư luận xã hội vẫn rất khe khắt với những
hiện tượng bất bình thường nên nó không có cơ hội phát triển. Từ sau khi nước ta
chuyển sang nền kinh tế thị trường thì hiện tượng này mới phát triển và được biết
đến một cách rộng rãi. Bởi tuy đây chỉ là biểu hiện của một nhóm đối tượng nhỏ
nhưng ảnh hưởng của nó đến đời sống văn hoá xã hội rất rõ ràng. Xét dưới góc độ
đạo đức, đồng tính luyến ái bị coi như một lối sống lệch lạc, trái với các quan niệm


truyền thống. Đồng tính luyến ái có lúc trở thành một dạng tệ nạn xã hội mới đặc
biệt là mại dâm nam. Nhóm đối tượng này có nguy cơ lây truyền HIV/ AIDS rất
cao. Do vậy, dù chỉ là hiện tượng xuất hiện trong một nhóm dân số nhỏ nhưng
đồng tính luyến ái lại tác động tới cuộc sống của cả cộng đồng. Chính vì lý do đó
đòi hỏi mọi người có một sự quan tâm tới nó để hiểu rõ bản chất từ đó tìm cách
ngăn chặn những tác động tiêu cực và hạn chế sự phát triển.
Sinh viên là nhóm có trình độ tri thức và năng lực được đánh giá là cao trong
xã hội. Họ là một bộ phận tiên tiến của tầng lớp thanh niên, luôn nhạy bén với các
hiện tượng mới nảy sinh cả những hiện tượng tích cực cũng như tiêu cực như đồng
tính luyến ái. Thêm nữa, do đặc thù về nơi cư trú, thường là ký túc xá và nhà trọ -
nơi tốt xấu cùng tồn tại nên sinh viên cũng có sự hiểu biết tương đối về hiện tượng
này.
Khi được hỏi "Bạn đã bao giờ nghe nói về hiện tượng đồng tính luyến ái
chưa?", có tới 77.5% sinh viên trả lời đã nghe nhiều lần, 21.5% chỉ nghe một vài
lần và 1% chưa bao giờ nghe nói đến. Có thể thấy sự quan tâm của sinh viên đối
với hiện tượng đồng tính luyến ái tồn tại ở mức cao. Điều này cũng chứng tỏ rằng,
đồng tính luyến ái không còn là một hiện tượng cá biệt mà đã được tồn tại rộng rãi
thu hút sự quan tâm của dư luận xã hội và nhóm sinh viên. Người sinh viên hiện
đại không còn chỉ học và nghiên cứu những vấn đề lý thuyết mà họ luôn năng
động, đi sát thực tế, nắm bắt kịp thời mọi sự thay đổi của xã hội.
Bảng 1: Tương quan giới và nơi sống trước khi vào đại học của sinh viên với sự
quan tâm của họ tới hiện tượng đồng tính luyến ái (Đơn vị %)
STT Mức độ quan
tâm
Nam giới Nữ
giới
Đô thị Nông thôn Tổng
1 Nghe nhiều lần 40% 37.5% 40% 37.5% 77.5%
2 Nghe một vài lần 10% 11.5% 9.5% 12% 21.5%
3 Chưa bao giờ 0% 1% 0.5% 0.5% 1%

Qua bảng 1 ta thấy số sinh viên nam và số sinh viên đô thị biết đến hiện tượng
đồng tính luyến ái cao hơn nhóm sinh viên nữ và sinh viên nông thôn. Điều này
xuất phát từ những nguyên nhân khách quan. Trước hết, nam giới luôn nhạy bén
hơn, năng động hơn và thích tìm hiểu những hiện tượng mới lạ đặc biệt là liên
quan đến vấn đề giới tính. Còn nữ giới luôn được quan niệm rằng phải dịu dàng,
kín đáo, không nên tự tìm hiểu về vấn đề giới tính. Thêm nữa, nữ giới rất e dè với
những hiện tượng bất bình thường như hiện tượng đồng tính luyến ái. Do vậy tỷ lệ
nữ sinh viên chỉ nghe đến hiện tượng này một vài lần cao hơn so với sinh viên nam
trong khi nam sinh viên lại biết đến hiện tượng này nhiều hơn. Số sinh viên chưa
bao giờ nghe nói về hiện tượng này chỉ chiếm tỷ lệ rất thấp và cũng rơi vào nữ
giới.
Mỗi sinh viên trước khi tham gia học đại học tại Hà Nội đều mang trong
mình những đặc điểm riêng về nơi sống. Môi trường sống của một cá nhân chi
phối rất nhiều đến nhân cách cũng như sự hiểu biết và quan niệm của anh ta về thế
giới xung quanh. Nếu nơi sống của một sinh viên là đô thị - khu vực có sự phát
triển về kinh tế, văn hoá, xã hội, cá nhân đó sẽ có hiểu biết phong phú và sâu sắc
hơn. Ngược lại, những sinh viên xuất phát từ nông thôn thường chịu thiệt thòi bởi
ít được cập nhật những luồng thông tin mới. Thêm nữa, quan niệm của người dân
nông thôn và đô thị cũng có điểm khác biệt do nền văn hoá và lối sống.
Do vậy, số sinh viên nông thôn đã có sự hiểu biết tương đối nhiều về hiện
tượng đồng tính luyến ái thấp hơn sinh viên đô thị và tỷ lệ sinh viên đô thị chỉ mới
biết đến hiện tượng này một vài lần thấp hơn nhóm sinh viên nông thôn. Nhưng tỷ
lệ chênh lệch giữa họ không cao. Bởi tuy xuất phát từ nơi sống khác nhau nhưng
môi trường học tập và cư trú của họ hiện nay đều là đô thị, nơi mà các phương tiện
truyền thông đại chúng rất phát triển. Thêm nữa, môi trường cung cấp tri thức cho
họ là trường đại học - đảm bảo nguồn tri thức về mọi mặt của đời sống. Trong số 2
sinh viên nữ chưa nghe đến hiện tượng đồng tính luyến ái có một người ở nông
thôn và một ở đô thị. Tuy nhiên đây chỉ là trường hợp cá biệt bởi với sự tuyên
truyền rộng rãi của phương tiện truyền thông đại chúng cũng như sự biết đến của
nhóm bạn xung quanh thì chắc chắn có rất ít sinh viên chưa từng nghe qua hiện

tượng này.
Loại hình gia đình và nơi cư trú hiện nay của sinh viên cũng có những ảnh
hưởng nhất định tới mức độ hiểu biết của sinh viên về hiện tượng đồng tính luyến
ái. Mỗi nghề nghiệp thường tương ứng với một môi trường làm việc cũng như
trình độ học vấn của cá nhân làm công việc đó. Do vậy hình thành nên những quan
niệm và cách đánh giá khác nhau đồng thời là những môi trường xã hội hoá các
thành viên khác nhau. Khi lớn lên, mỗi sinh viên sẽ mang theo trong mình những
ảnh hưởng của gia đình và nghề nghiệp của bố mẹ tham gia vào xã hội. Các sinh
viên theo học đại học có những nơi cư trú khác nhau nhưng chủ yếu là ký túc xá,
nhà trọ và ở cùng gia đình. Những địa điểm cư trú này sẽ tác động đến nhận thức
cũng như mức độ quan tâm tới các hiện tượng xã hội bởi đặc thù về các mối quan
hệ cũng như các nguồn cung cấp thông tin.
Bảng 2: Tương quan nơi cư trú hiện nay và loại hình gia đình với sự quan
tâm tới hiện tượng đồng tính luyến ái( Đơn vị %)
Đặc điểm nơi cư trú
và loại gia đình
Nghe nhiều
lần
Nghe một vài
lần
Chưa nghe bao
giờ
Nơi cư
trú hiện
nay
Ký túc xá 79.6% 18.5% 1.9%
Gia đình 87.5% 12.5% 0%
Nhà trọ 66.2% 32.4% 1.4%
Loại
hình

gia
đình
Công nhân viên chức 77.8% 21.3% 0.9%
Buôn bán 80% 20% 0%
Nông nghiệp 75.6% 22% 2.4%
Nghề khác 77.3% 22.7% 0%
Khác với sự cân bằng về giới và nơi sống trước khi vào đại học, sinh viên có
nơi cư trú và loại hình gia đình khác nhau tồn tại một cách ngẫu nhiên. Do vậy, ở
đây khi so sánh phải dùng tỷ lệ lựa chọn trên tổng số sinh viên theo từng nơi cư trú
và loại hình gia đình. Qua khảo sát, có thể thấy nhóm sinh viên ở cùng gia đình có
sự quan tâm đến hiện tượng đồng tính luyến ái ở mức cao nhất. Những sinh viên
hiện ở cùng gia đình thường ở đô thị nên họ có điều kiện để biết đến hiện tượng
đồng tính luyến ái. Thêm nữa, các gia đình đô thị do ảnh hưởng của nếp sống ít
khép kín hơn nông thôn nên sự trao đổi giữa cha mẹ với con cái về các sự kiện tồn
tại trong đời sống xã hội có phần thoải mái . Các sinh viên ở ký túc xá và nhà trọ ít
có điều kiện tiếp cận thường xuyên với các thông tin mới nên biết đến đồng tính
luyến ái ở mức trung bình. Đặc biệt là nhóm sinh viên ở nhà trọ, chỉ sống thành
một cụm hoặc riêng lẻ không tập trung, ít có sự trao đổi thông tin như các bạn
trong ký túc xá nên có tỷ lệ lựa chọn mức độ chỉ mới nghe qua là cao nhất. Số sinh
viên chưa biết đến hiện tượng đồng tính luyến ái đều thuộc nhóm sinh viên ở nhà
trọ và ký túc xá.
Sinh viên trong mẫu nghiên cứu tập trung ở bốn loại gia đình: công nhân
viên chức, buôn bán, nông nghiệp và nghề khác. Tiêu chí phân loại phụ thuộc vào
những nhóm nghề nghiệp phổ biến trong xã hội. Mỗi loại gia đình này sẽ tương
ứng một tiểu văn hoá riêng do trình độ học vấn và môi trường làm việc của cha mẹ
chi phối.
Qua nghiên cứu cho thấy nhóm sinh viên thuộc gia đình làm nghề buôn bán có
mức độ biết đến hiện tượng đồng tính luyến ái mức cao nhất. Đây là một điều bất
ngờ bởi trong quan niệm, nhóm nghề nghiệp công nhân viên chức thường có trình
độ học vấn cao hơn do vậy con cái trong các gia đình này chắc chắc phải có sự

hiểu biết sâu sắc hơn. Tuy nghề nghiệp của các gia đình buôn bán không thuộc các
lĩnh vực chính thức của Nhà nước nhưng đặc thù công việc đòi hỏi họ phải có sự
cọ xát, tiếp xúc thường xuyên với thực tế xã hội. Do vậy, các thành viên trong gia
đình sẽ hiểu biết nhiều và sâu hơn về các sự kiện xã hội.
Ngược lại, trong các gia đình công nhân viên chức có lẽ vẫn tồn tại sự lo lắng về
ảnh hưởng của xã hội tới con cái mình nên có thể chọn cách tránh né không đề cập
đến những hiện tượng xã hội đang tồn tại. Nên có trường hợp sinh viên thuộc loại
gia đình này chưa bao giờ nghe nói về đồng tính luyến ái.
Gia đình làm nghề nông thường có nơi sống là nông thôn. Đó không chỉ là
một không gian địa lý mà còn là một không gian văn hoá với những giá trị và quan
niệm truyền thống còn ảnh hưởng mạnh mẽ. Dù rằng kinh tế thị trường đã tạo ra
những biến đổi nhất định nhưng những quan niệm đã tồn tại vững chắc thì rất khó
thay đổi. Đồng thời đây là nhóm nghề nghiệp có mặt bằng tri thức thấp hơn so với
các nhóm khác với đặc thù công việc bận rộn, vất vả, ít có điều kiện tiếp xúc, cập
nhật thông tin. Nếu đồng tính luyến ái với một số người dân đô thị vẫn rất mới mẻ
và quan điểm về nó còn nhiều xung đột thì ở nông thôn, việc chấp nhận bàn luận
và giáo dục con cái về hiện tượng này một cách công khai chắc chắn rất khó khăn.
Do vậy, sự tồn tại của số sinh viên chưa nghe về hiện tượng đồng tính luyến ái
thuộc loại gia đình làm nghề nông là điều dễ giải thích.
Như vậy, qua nghiên cứu cho thấy đa số sinh viên đều đã biết đến hiện
tượng đồng tính luyến ái. Sự hiểu biết về hiện tượng đồng tính luyến ái của sinh
viên chịu sự chi phối của các yếu tố như nơi sống trước đại học, thành phần gia
đình và nơi cư trú hiện nay.
2.2 Mức độ phổ biến của hiện tượng đồng tính luyến ái qua điều tra tần suất
gặp của nhóm sinh viên:
Qua điều tra, có thể thấy đa số sinh viên đã biết đến hiện tượng đồng tính
luyến ái. Điều này chứng tỏ rằng đồng tính luyến ái không còn tồn tại như một số
trường hợp cá biệt mà đã phát triển khá rộng rãi. Qua các phương tiện thông tin đại
chúng, sách báo gia đình và bè bạn, sinh viên thu thập được những hiểu biết về
hiện tượng này. Vấn đề đặt ra là trong thực tế, đồng tính luyến ái có tồn tại phổ

biến như vậy hay không? Có thể giải quyết câu hỏi này bằng cách tìm hiểu mức độ
đã gặp hiện tượng này của nhóm sinh viên. Cần lưu ý thêm rằng gặp ở đây là bao
gồm trường hợp gặp gỡ tình cờ và biết những người đồng tính luyến ái cụ thể.
Bảng 3: Mức độ gặp hiện tượng đồng tính luyến ái của nhóm sinh viên
(Đơn vị %)
STT Tần suất gặp hiện tượng đồng tính luyến ái Tỷ lệ %
1 Thường xuyên 7.5%
2 Thỉnh thoảng 22.5%
3 Hiếm khi 25.5%
4 Chưa bao giờ 44.5%
Nhìn qua bảng số liệu, ta có thể nhận thấy tỷ lệ sinh viên đã gặp, đã biết trường
hợp người đồng tính luyến ái ít nhất một lần trở lên là 55.5%, trong khi đó chỉ có
44.5% sinh viên chưa gặp hiện tượng này bao giờ. Điều này khẳng định rằng đồng
tính luyến ái không phải là một hiện tượng cá biệt, ít người biết đến mà sự tồn tại
của nó đã ở mức khá phổ biến. Trong số 55.5% sinh viên trả lời đã từng gặp hiện
tượng này, có 7.5% sinh viên gặp thường xuyên, 22.5% thỉnh thoảng mới gặp,
25.5% trả lời là rất hiếm khi. Bởi đồng tính luyến ái ở Việt Nam vẫn được coi như
một hiện tượng lệch chuẩn, một lối sống thiếu lành mạnh, ít nhận được sự đồng
tình của dư luận. Do vậy, những người thuộc nhóm này ít khi dám công khai quan
hệ cũng như những mong muốn của mình dù với những người thân. Có rất nhiều
trường hợp người đồng tính luyến ái vẫn phải lập gia đình với người khác giới,
sinh con như bình thường và tìm cách giấu đi con người thực của mình. Cho nên,
mức độ gặp của giới sinh viên với những người đồng tính luyến ái tồn tại như trên
là hợp lý.
Bảng 4: Tương quan giới với tần suất đã gặp hiện tượng đồng tính luyến ái
( Đơn vị %)
Nam sinh viên Nữ sinh viên Tổng
Thường xuyên 5.5% 2% 7.5%
Thỉnh thoảng 12% 10.5% 22.5%
Hiếm khi 14.5% 11% 25.5%

Chưa bao giờ 18% 26.5% 44.5%
Có thể nhận thấy rằng số sinh viên nam đã gặp, đã biết những trường hợp người
đồng tính luyến ái cao hơn so với nữ sinh viên. Và tỷ lệ sinh viên nữ chưa bao giờ
gặp hiện tượng này lại cao hơn nam sinh viên. Tương tự như đánh giá về mức độ
quan tâm tới hiện tượng đồng tính luyến ái, nguyên nhân của sự khác biệt này là do
bị chi phối bởi đặc trưng giới tính là mạnh bạo, ham tìm hiểu nên nam giới luôn có
xu hướng thích tìm hiểu các hiện tượng xã hội mới nảy sinh. Thêm nữa, theo quan
điểm khoa học và trong thực tế, hiện tượng đồng tính luyến ái cũng xuất hiện nhiều
ở nam giới hơn dẫn đến mức độ gặp nhiều hơn của nhóm sinh viên nam.
Biểu 1: Tương quan nơi cư trú/ mức độ gặp hiện tượng đồng tính luyến ái.
Bởi trong mẫu nghiên cứu, sinh viên cư trú tại ký túc xá, nhà trọ và gia đình
với tỷ lệ không đều nên trong tương quan phải sử dụng phần trăm trong cùng nhóm
cư trú. Quan sát biểu đồ ta thấy, số sinh viên chưa từng gặp hiện tượng đồng tính
luyến ái cao nhất tập trung ở nhóm sinh viên sống trong ký túc xá và thấp nhất ở
nhóm sinh viên thuê nhà trọ. Bởi do đặc thù về nơi cư trú, nam ở cùng nam, nữ ở
cùng nữ, nên những người cùng giới sống với nhau trong một thời gian khá dài, đã
quen sinh hoạt cùng nhau nên có thể tồn tại trường hợp đồng tính luyến ái mà họ
không nhận ra. Thêm nữa, người đồng tính luyến ái thường không dám công khai
cách sống của mình. Tuy nhiên cũng chính nhóm sinh viên ở ký túc xá lại có tần
suất gặp hiện tượng này thường xuyên là cao nhất. Bởi thời gian sinh viên ở ký túc
xá khá dài đủ học để có được những nhận biết về môi trường xung quanh mình.
Nhóm sinh viên ở nhà trọ tuy rằng ít gặp hiện tượng này thường xuyên do họ
thường không cư trú ở một nơi đó lâu dài mà rất hay di chuyển chỗ ở. Do vậy, họ
chưa kịp có những mối quan hệ gắn bó với những người xung quanh cũng như thu
được những thông tin về nơi sống. Tuy nhiên đây lại là nhóm gặp hiện tượng này
nhiều nhất cũng do tính di động về nơi ở của họ. Thêm nữa, sinh viên thuê nhà ở
trọ không chịu sự ràng buộc, kiểm soát trực tiếp của gia đình cũng như trường học,
môi trường họ ở cũng ít nhiều phức tạp trong các thành phần cư trú.
Đa phần sinh viên của hai trường Đại học trong mẫu nghiên cứu thường thuê
nhà trong các khu vực xung quanh trường để tiện việc học hành như Kim Giang,

Nhân Chính, Phùng Khoang, Thanh Xuân..Đây là những địa bàn dân cư phức tạp,
có nhiều thành phần cùng sinh sống như người lao động các tỉnh, sinh viên..Chính
đặc thù về nơi ở này đã dẫn đến khả năng gặp hiện tượng đồng tính luyến ái của
sinh viên ở những khu vực mình đang trọ cao nhất.
Bảng 5: Tương quan giới và nơi cư trú/ các địa điểm đã gặp hiện tượng đồng tính
luyến ái. (Đơn vị %)
Cùng nơi cư
trú
Tụ điểm giải trí,
nơi công cộng
Bạn bè Người thân
Nam 6.1% 46% 8.8% 0.9%
Nữ 8.8% 33.6% 1.8% 0.9%
Ký túc xá 5.3% 15.9% 1.8% 0.9%
Gia đình 2.6% 31.9% 4.4% 0%
Nhà trọ 7% 31.9% 4.4% 0.9%
Tổng 14.9% 79.6% 10.6% 1.8%

Nhìn vào bảng tương quan giới và nơi cư trú với các địa điểm mà sinh viên
đã gặp người đồng tính luyến ái, ta thấy tồn tại xu hướng như sau: số sinh viên
nam gặp hiện tượng này ở những người cùng nơi cư trú thấp hơn so với sinh viên
nữ, còn số sinh viên ở ký túc xá và nhà trọ có tỷ lệ gặp hiện tượng này ở nơi sống
của mình cao hơn nhóm sinh viên ở cùng gia đình. Đây là một điều cần lưu ý, bởi
như vậy là có tồn tại hiện tượng đồng tính luyến ái trong giới sinh viên, đặc biệt là
trong ký túc xá. Môi trường của sinh viên ký túc xá có sự đồng nhất về giới tính
trong một thời gian tương đối dài. " Môi trường cũng là một yếu tố dễ dẫn đến
hiện tượng này nhất là trong các môi trường có sự thuần nhất giới tính trong
thời gian dài." (T.,nam, K43 ĐHKHXHNV, nhà trọ-Thanh Xuân).
Sinh viên cũng là những người thuộc tầng lớp thanh niên, đang ở độ tuổi trưởng
thành về tâm sinh lý. Do vậy, có thể xuất hiện xu hướng sống lệch lạc nếu trong

môi trường có những người đồng tính luyến ái hoặc do chính sự tò mò của bản
thân. Một trường hợp sinh viên nam học tại trường đại học của Hải Phòng đã tự kể
về nguyên nhân mình đã trở thành người đồng tính luyến ái trong một phóng sự
của báo Hoa Học Trò("Tôi tự đánh mất giới tính của mình thế nào" số 420 - 421, ra
ngày 27- 12- 2001 và 1-1-2002) " Tôi thức giấc vì nghe tiếng cười..tôi không còn
tin ở mắt mình nữa khi thấy Kvà V, hai anh sinh viên năm 4 phòng tôi đang làm
một cái trò kỳ quái vô cùng ngay trên chiếc giường dưới tôi. Cả hai anh ấy đều
hành động như vợ chồng..". Bạn trai này đã phải trải qua những giờ phút kinh
hoàng với sự ám ảnh. Bạn đã định tâm sự với những người còn lại trong phòng
nhưng không ngờ những người bạn ấy cũng xử sự như những người đồng tính
luyến ái. Vì gia đình quá nghèo, bạn không thể xin chuyển ra ngoài ở trọ và cuối
cùng đã đánh mất giới tính của chính mình. Sự dụ dỗ, lôi kéo của những người
xung quanh cùng với sự tồn tại công khai quan hệ tình dục đồng giới đã khiến một
bạn sinh viên trở thành người đồng tính luyến ái.
Sinh viên thuê nhà trọ ở ngoài có tỷ lệ gặp hiện tượng ở nơi sống của mình cao
nhất. Bởi nếu những người trong ký túc xá đều là sinh viên thì những người ở nhà
trọ có nghề nghiệp và lối sống rất khác nhau. Đây là môi trường thuận lợi nảy sinh
các tệ nạn xã hội trong đó có đồng tính luyến ái. Khi được hỏi đã bao giờ gặp hiện
tượng này ở nhà trọ mình ở chưa, một bạn nữ cho biết:" Mình đã gặp hiện tượng
đồng tính luyến ái ở khu mình ở, đó là hai người nữ. Họ thường xuyên đi chơi
với nhau, người nữ đóng vai bạn trai ăn mặc rất giống con trai. Đi đâu họ cũng
đèo nhau và có cử chỉ thân mật như những người khác giới khi yêu nhau. Họ
công khai luôn mối quan hệ của mình.(H. nữ, K46 ĐHTN, nhà trọ - Kim Giang).
Có thể thấy hiện tượng đồng tính luyến ái với các bạn sinh viên không còn lạ lẫm
nữa bởi những ví dụ của thực tế tồn tại cùng với các bạn.
Còn với nhóm sinh viên ở cùng gia đình thì trường hợp gặp thường xuyên là rất ít
tuy nhiên vẫn có. Tuy nhiên, các bạn sinh viên thuộc nhóm này thường gặp hiện
tượng đồng tính luyến ái ở nơi công cộng và các tụ điểm giải trí cao bằng nhóm
sinh viên thuê nhà. Đây là hai nhóm có tính di động xã hội cao hơn nhóm sinh viên
trong ký túc xá. Bởi hầu hết các bạn sinh viên hiện ở cùng gia đình đều sống tại Hà

Nội. Họ có thời gian và điều kiện kinh tế để tới những nơi vui chơi giải trí và các
sinh viên ở nhà trọ cũng vậy. Cho nên họ có thể gặp hiện tượng đồng tính luyến ái
tại những nơi đó. Tỷ lệ sinh viên nói chung lựa chọn địa điểm này cao áp đảo so
với các địa điểm khác. Bởi người đồng tính luyến ái thường không dám công khai
mối quan hệ cũng như lối sống của mình. Do vậy, chỉ khi tới những địa điểm công
cộng, giữa những người xa lạ, họ mới dám sống theo cách của mình, ít dấu giếm
hơn, đặc biệt là những nơi tập trung những đối tượng như mình. Điều này cũng
chứng tỏ rằng, càng ngày người đồng tính luyến ái càng có can đảm sống theo cách
của mình mà không e ngại dư luận xã hội.

Tỷ lệ sinh viên cho biết có người đồng tính luyến ái là bạn bè của mình khá
thấp, 10.6%. Trong đó, tỷ lệ sinh viên nam có bạn bè là người đồng tính cao hơn
hẳn sinh viên nữ. Như vậy là giới nam tồn tại hiện tượng đồng tính luyến ái cao
hơn giới nữ. Điều này cũng phù hợp với khảo sát về giới của người đồng tính luyến
ái mà sinh viên thường gặp: nam giới- 34%, nữ giới-11.5%.
Trường hợp người đồng tính luyến ái là người thân của sinh viên có tỷ lệ rất
thấp, 1.8% và đều ở sinh viên ở ký túc xá và nhà trọ.
Có thể thấy qua sự đánh giá của sinh viên thì đa số họ đã gặp hiện tượng đồng tính
luyến ái ít nhất là một lần. Số sinh viên nam đã gặp người đồng tính luyến ái nhiều
hơn sinh viên nữ. Còn nhóm sinh viên thuê nhà lại có tỷ lệ gặp hiện tượng này
nhiều hơn rất nhiều so với sinh viên ở ký túc xá và ở cùng gia đình.
Người đồng tính luyến ái mà sinh viên đã gặp thường tập trung ở các nơi vui chơi
giải trí, nơi công cộng. Tuy nhiên cũng tồn tại một số lượng không nhỏ sinh viên
thấy hoặc biết người có quan hệ tình dục đồng giới tại nơi mình cư trú đặc biệt là ở
ký túc xá và nhà trọ của họ. Đây là một hiện tượng không còn cá biệt, chiếm một tỷ
lệ nhỏ mà đã chiếm một con số đáng kể. Do vậy, vấn đề quản lý đời sống cho các
sinh viên sống xa gia đình khi lên học đại học nhằm ngăn ngừa những tệ nạn xã hội
có thể xảy ra rất quan trọng.
3. Nhận thức của sinh viên về bản chất của hiện tượng đồng tính luyến ái
3.1 Nhận thức của sinh viên về nhóm tuổi và nhóm đối tượng

Cũng như những hiện tượng xã hội khác, đồng tính luyến ái hay tình dục
đồng giới cũng có những đặc trưng riêng về đối tượng, lứa tuổi..Theo các nhà khoa
học thì đồng tính luyến ái xuất hiện chủ yếu ở nam giới và thường phát triển khi
con người bước vào độ tuổi trưởng thành. Đối với những người bị bệnh lý bẩm
sinh thì đây là giai đoạn họ phát triển cả về thể chất và tinh thần. Do vậy những
biểu hiện tưởng chừng chỉ có ở thời thơ ấu bây giờ trở nên vững chắc hơn, thôi
thúc họ sống theo cách của mình. Với sự hoàn thiện về thể chất cũng như trình độ
nhận thức, hiểu biết họ lại càng khó vượt qua phần lệch lạc của mình.
Bảng 6: Hiểu biết của sinh viên về đối tượng và nhóm tuổi của người đồng tính
luyến ái( Đơn vị %)
Nam giới Nữ
giới
Cả hai
giới
Thanh thiếu niên Trưởng thành Cao tuổi
5.5% 2% 92.5% 52% 73% 14.5%
Khi được hỏi về giới tính sinh học của người đồng tính luyến ái, 92.5% sinh
viên cho rằng hiện tượng đồng tính luyến ái có thể xảy ra ở cả hai giới, 5.5% lựa
chọn phương án" chỉ xảy ra ở nam giới" và 2% sinh viên chọn phương án" chỉ xảy
ra ở nữ giới". Qua thực tế cũng như qua những phương tiện truyền thông đại
chúng, sinh viên đã có được những hiểu biết đúng đắn về nhóm đối tượng của đồng
tính luyến ái. Cả hai giới đều có thể tồn tại hiện tượng này nhưng qua điều tra tình
huống gặp người đồng tính luyến ái của sinh viên trong mẫu nghiên cứu cho thấy
có nhiều người đồng tính luyến ái nam hơn nữ. Và thông tin phỏng vấn sâu cũng
chỉ ra xu hướng như vậy" Theo ý kiến của mình thì hiện tượng đồng tính luyến ái
xảy ra ở nam giới nhiều hơn. Qua sách báo, mình thấy người ta thường đề cập
đến nam giới nhiều hơn. Và trong sinh hoạt, cuộc sống của người nam giới có
nhiều cái thoải mái hơn nữ giới." (H. nữ, K46 ĐHTN, ký túc xá).
Đối với mỗi cá nhân trong xã hội, từ khi sinh ra đã luôn gắn với một bản sắc
giới. Đó là sự nhận thức của cá nhân về giới của mình. Bản sắc giới thường phù

hợp với giới tính nhưng cũng có trường hợp không phải như vậy. Đó chính là
những trường hợp của người đồng tính luyến ái. Họ, về mặt sinh học là nam giới
hoặc nữ giới nhưng trong nhận thức, họ mong muốn và cảm thấy mình thuộc về
giới tính kia hoặc chỉ có thể có quan hệ tình cảm, quan hệ tình dục với người cùng
giới. Tuy nhiên, đồng tính luyến ái xảy ra nhiều hơn ở nam giới hơn nữ giới. Đó là
bởi một đặc trưng của giới tính sinh học mà người phụ nữ dù "đóng vai" nam giới
vẫn không thể từ bỏ dễ dàng - chức năng sinh con. Người phụ nữ ngay từ khi còn
là một bé gái đã được giáo dục về thiên chức làm vợ- làm mẹ của mình. "Con gái
có nhiều chuẩn mực kiểm soát hơn. Đấy là cái thứ nhất. Cái thứ hai là do bản
năng, thiên chức của người phụ nữ. Vì hai điều này nên làm cho con gái ít bị sa
vào hiện tượng này hơn là con trai" (C. nữ, K43 ĐHKHXHNV, gia đình). Đó là
một trong những bản sắc giới quan trọng nên được giáo dục, nhắc nhở thường
xuyên khiến người phụ nữ không dễ dàng sống trái với giới tính của mình. Thêm
nữa, họ vẫn là phái yếu, phải chịu đựng sự đánh giá, xem xét khắt khe hơn của các
chuẩn mực xã hội nên khó sống theo cách của mình mong muốn.
Nam giới là đối tượng có khả năng làm lan truyền bệnh HIV/AIDS cao hơn nhiều
so với nữ giới do đặc thù về lối sống. UNAIDS - tổ chức phòng chống căn bệnh
thế kỷ đã đưa ra năm lý do giải thích tại sao chiến dịch phòng chống AIDS toàn
cầu năm 2000 lại tập trung vào nam giới. Trong đó có một nguyên nhân đáng chú ý
là quan hệ tình dục đồng giới không an toàn giữa nam với nam gây nguy cơ cho cả
nam và nữ. Phần lớn quan hệ tình dục giữa nam với nam là dấu giếm. Và theo
nhiều nghiên cứu tiến hành trên thế giới, có đến hơn 1/6 nam giới nói rằng họ có
quan hệ tình dục đồng giới. Rất nhiều trong số họ đồng thời cũng có quan hệ với cả
phụ nữ. Do vậy nguy cơ lây truyền bệnh HIV/ AIDS tăng lên rất nhiều.
Đồng tính luyến ái về bản chất không chỉ đơn thuần là một loại bệnh lý mà còn
là biểu hiện về nhận thức, cách sống quan niệm nên các đối tượng của nó có những
đặc trưng nhất định về độ tuổi. 52% sinh viên được hỏi cho rằng đồng tính luyến ái
xảy ra ở độ tuổi thanh thiếu niên. 73% họ lại cho rằng hiện tượng này dễ xuất hiện
ở người trưởng thành và chỉ có 14.5% chọn phương án " xảy ra ở nhóm người cao
tuổi". Bởi cho dù là một loại bệnh lý hay sự lệch lạc về quan niệm, lối sống thì

đồng tính luyến ái cũng phải cần có một khoảng thời gian tương đối để hình thành.
Có 3 giai đoạn của quá trình xã hội hoá cá nhân và xã hội hoá vai trò giới.
Giai đoạn thơ ấu và nhi đồng, một cá nhân đã có thể có những biểu hiện khác
biệt với giới tính của mình do nguyên nhân bệnh lý hay do sự giáo dục lệch lạc của
gia đình. Các nhà nghiên cứu xã hội học giới cho rằng đây là giai đoạn quan trọng
đối với việc định hình bản sắc giới của trẻ( đặc biệt là 2 tuổi). Vai trò của cha mẹ
rất quan trọng trong việc chọn quần áo, đồ chơi phù hợp với giới tính. Nếu cha mẹ
không giúp trẻ hiểu về giới tính của mình cũng như cách ứng xử phù hợp thì có thể
dẫn đến sự lệch lạc sau này. Tuy nhiên, với sự chưa hoàn thiện về thể chất và nhận
thức, đối tượng chưa thể tự khẳng định mình là người đồng tính luyến ái. Phải chờ
cho đến khi đối tượng bước vào thời kỳ phát triển( tuổi dậy thì), những biểu hiện
ban đầu mới được củng cố, mạnh mẽ dần lên và đối tượng dần thay đổi theo sự
cảm nhận về giới tính của mình. Tuổi thanh thiếu niên có nhiều biến đổi về tâm
sinh lý, dễ bị ảnh hưởng bởi môi trường bên ngoài. Chính vì vậy đây cũng là thời
điểm dễ xuất hiện xu hướng đồng tính luyến ái nếu thanh thiếu niên bị lôi kéo, bị
dụ dỗ hay những biểu hiện ban đầu về bệnh lý ở thời thơ ấu rõ rệt hơn.
"Theo mình, đa phần người đồng tính luyến ái là thanh niên. ở tuổi nhỏ thì ít
khi có suy nghĩ như thế. Còn những người lớn tuổi dù bị bệnh thật sự, họ vẫn
kiềm chế để không ai biết hoặc không ảnh hưởng đến người khác. Họ có suy
nghĩ chín chắn hơn. Còn tuổi thanh niên có rất nhiều tính tò mò, chưa có suy
nghĩ chín chắn, dễ bị ảnh hưởng."( H. nữ, K46 ĐHKHTN, ký túc xá).
Nam giới và nữ giới ở nhóm tuổi này nếu bị đồng tính luyến ái có những suy nghĩ,
mong muốn được gắn bó với người cùng giới. Họ vẫn quan hệ với mọi người
nhưng người cùng giới là đối tượng họ gửi gắm tình cảm. Như vậy, hiện tượng
đồng tính luyến ái phát triển mạnh mẽ và rõ nét khi đối tượng bước vào tuổi dậy
thì.
Tuy nhiên theo quan điểm khoa học cũng như ý kiến của các bạn sinh viên
thì hiện tượng đồng tính luyến ái xuất phát ở độ tuổi thanh thiếu niên nhưng xảy ra
nhiều nhất ở những người trưởng thành. Đây là giai đoạn quá trình xã hội hoá cá
nhân đã hoàn thiện và bản sắc giới cũng đã định hình rõ nét, khó thay đổi. Thể chất

cũng như trình độ nhận thức của người trưởng thành đã phát triển đầy đủ. Nên hiện
tượng đồng tính luyến ái ở nhóm tuổi này được gọi bằng một thuật ngữ khác chính
xác hơn" tình dục đồng giới". Giai đoạn thanh thiếu niên, những dấu hiệu của đồng
tính luyến ái mà đối tượng cho rằng mình có thường do tâm sinh lý chưa ổn định,
bị ảnh hưởng môi trường, hoặc sự tò mò của bản thân, ngộ nhận gây nên " đồng
tính luyến ái giả". Nhưng khi trưởng thành với sự chín chắn trong suy nghĩ và hoàn
thiện và tâm sinh lý, hiện tượng này có thể sẽ biến mất. Hơn nữa, người trưởng
thành nếu buộc phải công khai "giới tính" thật của mình cũng ít e dè và sợ hãi dư
luận xã hội hơn.
Trường hợp người đồng tính luyến ái có thể xảy ra ở nhóm người cao tuổi là
rất hãn hữu và cũng ít sinh viên lựa chọn phương án này. Bởi đây là giai đoạn
giảm, chậm dần của quá trình xã hội hoá, giai đoạn dừng phát triển thể chất và bản
sắc giới cũng không thay đổi được nữa. Người đồng tính luyến ái nếu là thật sự đã
trải qua một khoảng thời gian rất dài sống khác với bản thân nên đây không phải là
giai đoạn thích hợp để bộc lộ nó nữa.
"Người cao tuổi nếu có bị đồng tính luyến aí thật sự thì vẫn kiềm chế để không
ảnh hưởng tới mọi người xung quanh và làm xấu bản thân mình" (T. nam, K43
ĐHKHXHNV, nhà trọ - Thanh Xuân). Và trường hợp xuất hiện sự lệch lạc trong
nhận thức, bị lôi cuốn bởi những điều mới lạ khó có thể xảy ra.
Có thể thấy rằng nhận thức của sinh viên về nhóm đối tượng cũng như nhóm
tuổi thường xuất hiện hiện tượng đồng tính luyến ái rất phù hợp với quan điểm
khoa học và thực tế. Đa số sinh viên đều cho rằng người đồng tính luyến ái có thể
thuộc bất kỳ giới nào và độ tuổi tập trung hiện tượng này là thanh thiếu niên và
người trưởng thành. Từ những hiểu biết đúng, họ có thể rút ra những kinh nghiệm
để ứng phó với hiện tượng này nếu nó xảy ra với bản thân mình vì chính họ cũng
thuộc nhóm đối tượng dễ bị ảnh hưởng.
3.2 Nhận thức của sinh viên về nguyên nhân dẫn đến hiện tượng đồng tính luyến ái
Xuất phát từ cá nhân nhưng đồng tính luyến ái lại trở thành một hiện tượng
xã hội rất phức tạp. Các nhà nghiên cứu đã tốn khá nhiều công sức để tìm hiểu bản
chất và nguyên nhân của hiện tượng này. Đồng tính luyến ái hay còn gọi là tình

dục đồng giới được coi như một loại bệnh tâm thần thuộc nhóm lệch lạc đối tượng
do vậy có những người đồng tính luyến ái bẩm sinh. Tuy nhiên đa số người đồng
tính luyến ái lại xuất phát từ ý thích, lối sống khác người bình thường. Thêm nữa
có những trường hợp bị biến thành người đồng tính luyến aí do bị lạm dụng tình
dục ngay từ khi còn nhỏ bởi người đồng giới, do sự giáo dục lệch lạc của gia đình
hay môi trường gia đình không ổn định, do ảnh hưởng của văn hoá nước ngoài hay
sự lôi kéo, dụ dỗ của người xấu. Chính vì sự phức tạp của nguyên nhân dẫn đến
hiện tượng này nên thật khó để chỉ ra rằng trường hợp nào là đồng tính luyến ái
thật hay giả, sẽ kéo dài mãi mãi hay chỉ tồn tại nhất thời. Việc hiểu rõ nguyên nhân
của hiện tượng này sẽ giúp mọi người và đặc biệt là nhóm sinh viên hiểu rõ hơn
bản chất của nó cũng như ngăn chặn sự phát triển.
Bảng 7: Nguyên nhân của hiện tượng đồng tính luyến ái ( Đơn vị % )
Nguyên nhân Tỷ lệ
Do bệnh lý bẩm sinh 40%
Do hồi nhỏ bị người cùng giới lạm dụng 25.5%
Do đua đòi, bị lôi kéo bởi những người xấu 45%
Do ảnh hưởng của văn hoá nước ngoài 29%
Do cách giáo dục trong gia đình không phù hợp, lệch lạc 22%
Do tò mò 29%
Qua bảng trên có thể thấy hai nguyên nhân có tỷ lệ lựa chọn cao nhất là "Do
bệnh lý bẩm sinh" và "Do đua đòi, bị lôi kéo bởi những người xấu". Một nguyên
nhân xuất phát từ bệnh lý và một nguyên nhân xuất phát từ nhận thức, lối sống.
Thực tế các nhà khoa học đã tìm hiểu và đưa ra kết quả rằng đồng tính luyến ái là
một loại bệnh lý thuộc nhóm bệnh tâm thần. Đó là những người sinh ra đã cảm
thấy sự lệch lạc trong đối tượng. Họ có vẻ bề ngoài bình thường như bao người
khác, không phô trương bệnh tật của mình nhưng nhóm đối tượng mà họ gửi gắm
tình cảm cũng như muốn chung sống lại là những người cùng giới. Sự khác biệt
này sẽ đi theo họ suốt cuộc đời và họ cũng không muốn thay đổi. Vì là một loại
bệnh lý nên họ rất cần sự chia sẻ và cảm thông của cộng đồng.
Trong số 40% sinh viên cho rằng đồng tính luyến ái có thể xuất phát từ một

loại bệnh lý thì sinh viên đô thị chiếm 20.5% và sinh viên nông thôn chiếm 19.5%.
Tuy rằng, sinh viên nông thôn và đô thị xuất thân từ những vùng đất có nền kinh tế
và văn hoá xã hội khác nhau nhưng khi vào trường đại học, họ đều có chung một
môi trường sống. Đó là thủ đô Hà Nội. Do vậy, hiểu biết cùng như quan niệm của
họ có phần tương đồng.
Còn xét tương quan giữa các sinh viên thuộc bốn loại gia đình, số liệu cho thấy có
một xu hướng như sau: 38.5% có gia đình thuộc nhóm công nhân viên chức, 45%
sinh viên có gia đình thuộc nhóm buôn bán, 36.6% sinh viên trong gia đình làm
nghề nông và 50% sinh viên trong gia đình làm các nghề nghiệp khác lựa chọn
phương án này. Như vậy là nhóm sinh viên thuộc nhóm gia đình làm nghề buôn
bán và nghề khác có sự lựa chọn phương án này cao hơn sinh viên thuộc các gia
đình còn lại.
Biểu 2: Tương quan gia đình sinh viên với nguyên nhân bệnh lý, bẩm sinh
Tồn tại một thực tế là phần lớn những người đồng tính luyến ái ở nước ta lại là
biểu hiện của một lối sống đua đòi, không lành mạnh. Đó là những người cố ý
biến mình thành giới tính thứ ba. Và ảnh hưởng của lối sống của họ tới xã hội, tới
mọi người xung quanh khiến hình thành nên một quan niệm rằng tất cả những
người đồng tính luyến ái đều là những kẻ đua đòi, sống bệnh hoạn. Đây là nguyên
nhân dẫn đến tỷ lệ lựa chọn cao nhất nguyên nhân này trong nhóm sinh viên.
Những người đồng tính luyến ái xuất phát từ nguyên nhân này đều bình thường về
thể chất cũng như tinh thần. Nhưng do sự lôi kéo của những người bị bệnh, ảnh
hưởng của môi trường sống có tồn tại hiện tượng này hay sự thúc đẩy của những
lợi ích vật chất khiến họ chấp nhận một cuộc sống như vậy.
" Người đồng tính luyến ái có thể do bệnh lý bẩm sinh nhưng cũng do người
ta không có tiền hoặc bị cuốn theo bản năng nên họ buộc phải làm như vậy để
kiếm tiền hoặc để thoả mãn bản năng." (C. nữ, K43 ĐHXHNV, gia đình).
Trong số 45% sinh viên cho rằng đồng tính luyến ái là biểu hiện của lối sống đua
đòi, bị lôi kéo do sự thiếu bản lĩnh của cá nhân thì sinh viên đô thị là 22% và sinh
viên nông thôn là 23%. Như vậy là có sự chênh lệch dù không đáng kể giữa sự lựa
chọn của hai nhóm sinh viên này. Sinh viên nông thôn dù môi trường sống và học

tập hiện ở đô thị nhưng những quan niệm cũng như cách nhìn nhận, đánh giá của
họ vẫn khác biệt và có phần khe khắt với những hiện tượng mà họ thấy tồn tại ở đô
thị. Bởi cuộc sống của người dân nông thôn còn chịu nhiều ảnh hưởng của quan
niệm, đạo đức văn hoá truyền thống, không dễ gì chấp nhận một hiện tượng mới
như đồng tính luyến ái.
Biểu 3. Tương quan loại hình gia đình sinh viên /"do đua đòi, bị lôi kéo bởi người
xấu"
Sinh viên trong các gia đình thuộc các nhóm nghề nghiệp khác nhau cũng có
sự đánh giá đối với nguyên nhân này khác nhau qua biểu đồ 3. Xét trong tổng số
từng loại gia đình thì sinh viên thuộc nhóm gia đình công nhân viên chức, làm
nông nghiệp và nghề khác có tỷ lệ lựa chọn phương án này cao hơn sinh viên có
gia đình làm nghề buôn bán. Có thể thấy môi trường gia đình có ảnh hưởng rất lớn
đến nhận thức của sinh viên. Sinh viên trong gia đình làm nghề nông và công nhân
viên chức tuy khác nhau về đặc thù công việc nhưng giống nhau ở cách giáo dục
cũng như quan niệm của cha mẹ. Có thể hiểu là công nhân viên chức cũng như
nông dân đều rất coi trọng việc giáo dục con cái trước những tệ nạn xã hội đang
diễn ra. Họ cho rằng hầu hết chúng đều xuất phát từ sự lôi kéo của kẻ xấu cũng
như lối sống đua đòi. Còn các gia đình cha mẹ làm nghề buôn bán, va chạm nhiều
với thực tế nhưng do trình độ văn hoá có hạn cũng như ít có thời gian trò chuyện,
nhắc nhở con cái nên sự cảnh báo con em trước những hiện tượng mới lạ như đồng
tính luyến ái chưa đầy đủ.
Quay trở lại với trường hợp bạn sinh viên đã đề cập đến ở phần trên, sau khi
không thể chia sẻ với ai với những áp lực tâm lý, chính bạn cũng đã bị lôi kéo và
trở thành một người đồng tính luyến ái." Phải nói thêm rằng từ hôm đó trở đi, tôi
gần như tự cô lập mình. ..Có lẽ vì vậy nên tôi còn an toàn cho dến tận hôm
ấy..người khách lạ xuất hiện...Tôi mất dần ý thức để mà kiểm soát bản thân
mình. Tôi mất dần như đang mất đi giới tính của mình." ( "Tôi đã đánh mất giới
tính của mình như thế", báo HHT, số 420-421). Trong một xã hội với nhiều cám
dỗ và cái xấu đan xen tồn tại, bản lĩnh là một điều vô cùng cần thiết đối với cá
nhân. Bởi như trường hợp của người bạn trai trên, áp lực của một nhóm người sống

lệch lạc xung quanh đã khiến bạn dần biến mình thành người đồng tính luyến ái.
Cá nhân dù có sự tự bảo vệ mình mạnh mẽ đến đâu nhưng rất dễ bị ảnh hưởng bởi
môi trường xung quanh mình. Bởi họ luôn tồn tại sự sợ hãi bị cô lập, không hoà
nhập được với mọi người dù đó chỉ là một nhóm cùng nơi cư trú. Thêm nữa, sự lôi
kéo của những lợi ích vật chất như kinh tế hay sự chi phối của bản năng khiến họ
nếu một lần đã trở thành người đồng tính luyến ái sẽ rất khó vượt qua nó.

Hai phương án có tỷ lệ lựa chọn bằng nhau là " do ảnh hưởng của văn hóa
nước ngoài" và " do tò mò". Nền kinh tế thị trường đã mang lại những thay đổi tích
cực cho bộ mặt kinh tế- văn hoá- xã hội nước nhà. Mở cửa kinh tế cũng có nghĩa là
văn hoá cũng được mở cửa, hội nhập với những nền văn hoá trên thế giới. " Hoà
nhập nhưng không hòa tan", giữ gìn giá trị văn hoá truyền thống vẫn cần được đề
cao bởi có những tư tưởng văn hoá, giá trị văn hoá ở quốc gia này là hợp lý nhưng
khi xâm nhập vào nước khác lại không phù hợp, bị phản đối. ở nhiều nước trên thế
giới, nhất là các nước Châu Âu, đồng tính luyến ái không còn là một điều mới mẻ
cũng như đã được chấp nhận như một nhóm người, một lối sống bên cạnh những
nhóm người khác, những lối sống khác trong xã hội. Nhưng đối với nền văn hoá
Việt Nam thì đồng tính luyến ái là biểu hiện của một lối sống bất bình thường, trái
ngược với những chuẩn mực đạo lý truyền thống. Ca dao Việt Nam có câu:
" Đàn ông nằm với đàn ông
Như gốc như gác như chông như chà
Đàn ông nằm với đàn bà
Như lụa như lĩnh như hoa trên cành"
Điều này chứng tỏ rằng ngay từ xưa, quan niệm truyền thống đã không tán thành
chuyện ngược đời - có tình cảm giữa những người đồng giới. Tuy nhiên sự gia tăng
của hiện tượng đồng tính luyến ái trong thời gian gần đây cùng những biến tướng
của nó như nạn mại dâm nam dường như là kết quả của sự nhìn nhận thoáng hơn
một vấn đề. Phải chăng sự phổ biến, sự chấp nhận hiện tượng đồng tính luyến ái
trên thế giới đã có ảnh hưởng tới cách đánh giá, quan niệm của người Việt Nam.
Đặc biệt là sự phổ biến của hiện tượng đồng tính luyến ái trong giới văn nghệ sĩ,

nhất là ca sĩ mà báo An ninh thế giới ( số ngày 21-10-1999) đã ước đoán " chí ít
cũng từ 5 - 10 %"".
" Cách ăn mặc của những ca sĩ hiện nay không rõ ràng về giới tính như trước.
Con trai có thể ăn mặc điệu đà, đeo đồ trang sức. Ca sĩ và diễn viên ở một môi
trường dễ tiếp xúc với văn hoá phương Tây nhiều hơn. Ở đó có tư tưởng thoáng
hơn và biểu hiện, quan hệ cũng thoải mái hơn." (H. nữ, K46 ĐHTN, ký túc xá).
Cả hai phương án trên đều được sinh viên đô thị đều lựa chọn nhiều hơn sinh viên
nông thôn. Bởi ở nông thôn nền văn hoá truyền thống vẫn còn ảnh hưởng mạnh mẽ
tới hành vi cũng như quan niệm của người dân. Tuy rằng nền kinh tế thị trường với
sự du nhập văn hoá cũng tác động ít nhiều tới nếp sống, nếp nghĩ của người nông
thôn nhưng những hiện tượng mới và bất bình thường như đồng tính luyến ái cho
dù có được biết đến nhưng sự ảnh hưởng của nó tới họ cũng như những sinh viên
nông thôn là rất ít.
Còn đối với nguyên nhân do sự tò mò nên một số người có thể trở thành đồng
tính luyến ái cũng là một hệ quả của sự ảnh hưởng văn hoá nước ngoài. Do vậy
cũng chỉ có ở đô thị hoặc những nơi phát triển về kinh tế - văn hoá mới xảy ra
trường hợp này. Những cá nhân sinh ra và lớn lên ở nông thôn chịu sự chi phối và
giáo dục theo truyền thống, khe khắt cho dù có những khuynh hướng phát triển bất
bình thường cũng sẽ bị uốn nắn và điều chỉnh ngay.
Nếu có những người đồng tính luyến ái là do sự lôi kéo của người khác thì
cũng có những người chấp nhận quan hệ tình dục đồng giới do sự tò mò, không có
bản lĩnh của bản thân. Hiện tượng này phổ biến ở nhóm thanh niên. Đây là lứa tuổi
chưa có sự chín chắn trong suy nghĩ, trình độ nhận thức và tri thức chưa hoàn
thiện, dễ bị hấp dẫn bởi những điều mới lạ. Thêm nữa giáo dục giới tính ở gia đình
và nhà trường còn quá mờ nhạt, ít tác dụng. Trong khi chờ đợi một sự hướng dẫn
đầy đủ và trực tiếp từ các nguồn xã hội hoá trên, rất nhiều thanh niên đã tự đi tìm
hiểu qua các nguồn băng đĩa, sách báo và mạng ( chứa đựng nhiều thông tin xấu).
Kết quả là họ bị ảnh hưởng bởi những nội dung thông tin đó dẫn đến sự gia tăng
của các tệ nạn xã hội. Và tình dục đồng giới cũng có điều kiện để phát triển.
Như đã đề cập đến trong phần cơ sở lý luận, hiện tượng đồng tính luyến ái

rất phức tạp. Ngoài những nguyên nhân như bệnh lý, do ảnh hưởng môi trường
sống, một lý do nữa của hiện tượng này là do hồi nhỏ bị người cùng giới lạm dụng.
Số lượng các bạn sinh viên lựa chọn này ở mức trung bình, chứng tỏ sự quan tâm
của họ đến nguyên nhân này. Trong những năm gần đây, tội phạm đối với trẻ em ở
nước ta có xu hướng phát triển. Nó tồn tại dưới nhiều hình thức như đánh đập,
giam giữ trái phép và lạm dụng tình dục với các em. Sự xâm hại, sử dụng bạo lực
hay lạm dụng tình dục với trẻ em là một tội ác bị xã hội lên án mạnh mẽ. Bởi
những hành động đó không chỉ gây hại về thể chất, sức khoẻ cho các em mà
nghiêm trọng hơn nữa là sự tổn thương nặng nề về tâm lý, sự phát triển tinh thần
sau này.Dấu ấn của sự xâm hại thời thơ ấu sẽ đi theo các em suốt cuộc đời ảnh
hưởng đến quan niệm, lối sống sau này ( nhất là từ độ tuổi nhi đồng đã biết nhận
thức). Đặc biệt là lạm dụng tình dục với trẻ em của người đồng giới. Sự kiện này sẽ
dẫn đến những tổn thương tâm lý như căm ghét những người cùng giới, sống trong
tình trạng sợ hãi, mặc cảm không muốn tiếp xúc với xã hội, cộng đồng.

×