Tải bản đầy đủ (.docx) (17 trang)

Bài thuốc gia truyền 7 đời lạ lùng ở chốn non cao doc

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (642.81 KB, 17 trang )

Bài thuốc gia truyền 7 đời lạ lùng ở chốn non
cao
Thứ Năm, ngày 21/01/2010, 11:05
(Tin tuc) - Ông Bùi Văn Vẻ, trạm trưởng Trạm Y tế xã Lạc Lương cho biết, bài thuốc của bà
Viển ông đã nghe nói từ lâu.
Tin Tức, Tin HOT trong ngày được cập nhật liên tục từng giờ tại Tin Tức Trong Ngày
Không bó, không nắn, chỉ cần treo túi thuốc nhỏ bằng 3 đầu ngón tay, cách người bị gãy
xương khoảng 2 - 3m là xương tự liền. Người đang sở hữu bài thuốc bí truyền này là bà
Quách Thị Viển ở xóm Đồi, xã Lạc Lương, huyện Yên Thuỷ, tỉnh Hoà Bình. Đến nay, bà Viển
đã "phẫu thuật" thành công hàng nghìn ca bị gãy xương.
"Cách bức"
Mế Viển dẫn tôi lên nhà. Tôi nhìn đi, nhìn lại quanh nhà không thấy bất cứ một dụng cụ nào
để sao hay chế biến thuốc. Khi đã yên vị, mế Viển mới nhẹ nhàng gỡ chiếc túi treo trên vách
nhà. Phía trong có vài loại lá khác nhau và 2 đồng xu bằng đồng và một con dao. "Bí quyết
của tôi là ở đây", mế Viển bảo.
Đồng xu kỳ bí làm nên bài thuốc treo.
Đang nói dở câu chuyện thì có mấy người đến lấy thuốc. Ai đến cũng mang theo một chai
rượu và một gói bánh Mế nhận những thứ này rất trang trọng rồi đặt chúng lên bàn thờ
cung kính làm lễ. Mế bảo, việc cúng này không phải là mê tín mà người Mường thường có
thói quen cúng trời, cúng đất để cảm ơn các vị thần linh đã ban cho cây thuốc ở ngoài rừng,
cho bài thuốc cứu người
Sau những thủ tục đó, mế mới lấy một ít lá trong túi thuốc ra băm nhỏ rồi gói vào một chiếc
túi. Trước khi gói, mế dùng dao cạo đồng bạc có khắc 4 chữ Nho vào gói thuốc. Gói xong túi
thuốc, mế dùng kim chọc nhiều lần vào gói thuốc đó.
Mế châm thuốc.
Vừa chọc mế vừa "mằn" (đọc những câu thần chú) vào gói thuốc. Khi đã xong hết các thủ
tục, mế mới đưa cho mỗi người 2 gói, mế Viển căn dặn: Nếu là trẻ con phải treo thuốc cách
người 7 - 9m, người lớn 2 - 3m. Khi treo thuốc người bị bệnh cảm thấy dễ chịu là được. Nếu
treo gần quá người bệnh sẽ khó ở, treo cao quá thuốc sẽ không hiệu nghiệm.
Mế Viển học được bài thuốc này từ mẹ. Nghe các cụ kể lại, ngày ấy cụ cố của mế Viển có
việc ra Đông Triều (Quảng Ninh) chơi. Trời tối, cụ có nghỉ nhờ ở một gia đình người gốc Hoa.


Đúng hôm đó, con dâu của ông chủ nhà đau đẻ. Ông chủ nhà vốn là người có bài thuốc treo
chữa gãy xương rất tài tình nhưng về phụ khoa lại không biết.
Đúng lúc đó, cụ cố đã dùng bài thuốc gia truyền của người Mường giúp cô con dâu của ông
chủ nhà sinh hạ được an toàn. Để cảm ơn người khách, chủ nhà cũng dạy lại cho cụ cố bài
thuốc chữa gãy xương kèm theo hai đồng tiền có khắc chữ Nho. Ông này gọi bài thuốc đó là
chữa gãy xương bằng phương pháp cách bức.
Từ đó cụ cố mới biết bài thuốc này. Trải qua mấy đời, các cụ đều dùng bài thuốc này chữa
gãy xương cho người dân quanh vùng. Tính đến đời mế Viển đã là đời thứ 7.
Lựa chọn sinh tử
Trước khi lên núi tìm gặp mế Viển, chúng tôi đã gặp được "bệnh nhân" của mế, đó là anh
Bùi Văn Đông ở xóm Yên Tân, xã Lạc Lương. Nhà anh vốn nghèo khó, những ngày giáp hạt,
anh phải vào rừng đào củ mài, củ nâu về ăn.
Một hôm thấy anh đi từ sáng đến tối chưa về, vợ anh nóng ruột nhờ anh em vào rừng tìm
giúp. 10 thanh niên tìm hết cánh rừng này đến cánh rừng khác mà vẫn chưa thấy anh. Sau
gần hai ngày tìm kiếm mọi người mới tìm thấy anh ở một khe núi. Anh bị 2 hòn đá to đè lên
chân và nằm bất tỉnh.
Khi người nhà đưa anh đến bệnh viện đôi bàn chân của anh đã nát bét. Các bác sĩ bảo:
Muốn cứu anh Đông chỉ còn cách cưa đôi chân. Nếu để lâu, vết thương sẽ nhiễm trùng và
càng khó chữa. Nghe bác sĩ bảo vậy, anh Đông nghĩ, giờ mà cắt đôi chân đi coi như mình là
người tàn phế, cả đời ăn bám vợ con.
Giữa sự lựa chọn sinh tử, anh mới chợt nhớ ra là mấy đứa con nhà mình từng bị gãy tay
được mế Viển ở xóm Đồi chữa thuốc lá khỏi. Giờ cứ thử để mế Viển chữa cho xem sao. Ngay
hôm sau, anh xin xuất viện. Vừa về đến nhà, anh đã cử người đi đón mế xuống. Xem qua
vết thương của Đông, mế Viển lắc đầu: Cái này khó đấy. Tôi cũng chỉ thử thôi, chứ chân
cẳng nát bét như thế này thì ít hy vọng lắm. Thôi còn nước còn tát.
Mế Viển dùng một chiếc ống tre thổi vào vết thương giúp Đông bớt đau. Sau đó mế Viển
dùng một gói thuốc treo lên đình màn. Cứ sau 3 ngày, bà lại đến thay thuốc một lần. Sau
hai tháng chữa trị, bệnh tình của Đông đã thuyên chuyển.
Anh Đông nhớ lại, khi ấy 2 bàn chân đã dập nát của mình như có người dùng tay vun chúng
lại. Những cơn đau cũng dần qua đi, thay vào đó là một cảm giác thật dễ chịu lan tỏa khắp

cơ thể. Giờ thì anh có thể đi lại được. Tuy không làm được việc nặng như trước nhưng anh
vẫn lên nương làm rẫy bình thường.
Từ chỗ không tin
Một trường hợp khác là ông Bùi Văn Sĩ. Năm ngoái lần đầu đi tập xe máy, ông va phải con
bò và bị rơi xuống cống. Ông bị gãy chân. Bệnh viện thì ở xa, mọi người khuyên ông nên
đến mế Viển lấy thuốc.
Thực ra sống ở rừng núi bao đời nay nhưng ông cũng không tin lắm về bài thuốc treo của
mế Viển. Con cái vận động mãi, nhưng ông nhất định từ chối. Vì thương bố nên mấy đứa
con đã tự lên nhà mế Viển lấy thuốc. Về nhà chúng bí mật treo gói thuốc lên trên đình màn.
Nhờ bài thuốc đó mà ông Sĩ không kêu đau nữa.
Sau 3 ngày, đôi chân của ông có thể cử động được mà không đau. Đến lúc này, các con mới
nói với ông: Bố đi lại được là nhờ bài thuốc của mế Viển đấy. "Chúng bay láo! Tao có uống
thuốc bao giờ đâu mà khỏi", ông quát mấy đứa con.
Anh Bùi Văn Đông có được đôi chân lành lặn là nhờ bài thuốc của mế Viển.
Lúc ấy người con trai cả mới chỉ tay lên đình màn: "Cái gói thuốc nho nhỏ treo trên cao kia
là thuốc của bà Viển đấy ". Lúc đó ông Sĩ mới tin bài thuốc của mế Viển hiệu nghiệm.
Không chỉ anh Đông và anh Sĩ được chữa khỏi bệnh, hầu như các gia đình ở huyện Lạc Thuỷ
có con, cháu không may bị gãy chân, gãy tay đều được mế Viển chữa giúp. Họ đều mế Viển
là ân nhân của gia đình. Nhiều người còn cho con, cháu nhận mé Viển là mế nuôi (mẹ nuôi).
Tài nghệ chữa xương của mế Viển đã vượt qua những dãy núi đá của Yên Thuỷ về xuôi. Rất
nhiều người ở Hà Nội, Thái Bình, Nam Định đã cất công lên tận xóm Đồi đón mế Viển về
tận nhà chữa gãy xương cho người thân.
Khó lý giải
Từ ngày được truyền nghề, số người đến mế Viển lấy thuốc ngày một đông. Suốt mấy chục
năm qua, mế Viển cũng không nhớ mình đã chữa khỏi cho bao nhiêu người nữa. Chỉ vào
đống vỏ chai khổng lồ chất đầy từ ngoài cổng đến chân cầu thang nhà sàn, mế Viển bảo:
"Mỗi người đến mang theo một chai rượu, nhìn vào số chai là biết được khách đến đây. Tôi
chữa bệnh chẳng phải tiền bạc gì nhưng chai rượu là thứ không thế thiếu để làm lễ".
Chữa xương bằng cách treo thuốc quả là lạ đời. Tôi cũng không có ý cổ xuý cho những cách
chữa bệnh thiếu cơ sở khoa học. Thế nhưng, tiếp xúc với nhiều bệnh nhân của mế Viển,

cũng như biết được các thầy lang người Mường vốn có nhiều bài thuốc bí ẩn nên những hoài
nghi của tôi dần được xóa mờ.
Mế Viển và thang thuốc của mình.
Ông Bùi Văn Vẻ, trạm trưởng Trạm Y tế xã Lạc Lương cho biết, bài thuốc của bà Viển ông đã
nghe nói từ lâu. Thực tế, không chỉ người dân địa phương, nhiều người nơi khác đến chữa
rất nhiều. Còn tác dụng, hiệu quả của bài thuốc này như thế nào thì ông không rõ lắm.
Nhưng có một điều ông biết là ông bạn đồng nghiệp của ông, hồi nhỏ đã từng bị gãy chân
và đến bà Viển nhờ chữa.
Kết quả là ông bạn đó khỏi thật và chỉ sau vài ngày đã đi lại được. Tuy nhiên, ông vẫn
khuyên ai không may bị gãy chân, gãy tay nên đi viện là tốt nhất. Bởi lẽ, đến nay chưa ai lý
giải một cách khoa học về bài thuốc của bà Viển. "Phải chữa khỏi thì mọi người mới đến",
ông Vẻ khẳng định.
Bài thuốc gia truyền 7 đời lạ lùng ở chốn non
cao
Thứ Năm, ngày 21/01/2010, 11:05
(Tin tuc) - Ông Bùi Văn Vẻ, trạm trưởng Trạm Y tế xã Lạc Lương cho biết, bài thuốc của bà
Viển ông đã nghe nói từ lâu.
Tin Tức, Tin HOT trong ngày được cập nhật liên tục từng giờ tại Tin Tức Trong Ngày
Không bó, không nắn, chỉ cần treo túi thuốc nhỏ bằng 3 đầu ngón tay, cách người bị gãy
xương khoảng 2 - 3m là xương tự liền. Người đang sở hữu bài thuốc bí truyền này là bà
Quách Thị Viển ở xóm Đồi, xã Lạc Lương, huyện Yên Thuỷ, tỉnh Hoà Bình. Đến nay, bà Viển
đã "phẫu thuật" thành công hàng nghìn ca bị gãy xương.
"Cách bức"
Mế Viển dẫn tôi lên nhà. Tôi nhìn đi, nhìn lại quanh nhà không thấy bất cứ một dụng cụ nào
để sao hay chế biến thuốc. Khi đã yên vị, mế Viển mới nhẹ nhàng gỡ chiếc túi treo trên vách
nhà. Phía trong có vài loại lá khác nhau và 2 đồng xu bằng đồng và một con dao. "Bí quyết
của tôi là ở đây", mế Viển bảo.
Đồng xu kỳ bí làm nên bài thuốc treo.
Đang nói dở câu chuyện thì có mấy người đến lấy thuốc. Ai đến cũng mang theo một chai
rượu và một gói bánh Mế nhận những thứ này rất trang trọng rồi đặt chúng lên bàn thờ

cung kính làm lễ. Mế bảo, việc cúng này không phải là mê tín mà người Mường thường có
thói quen cúng trời, cúng đất để cảm ơn các vị thần linh đã ban cho cây thuốc ở ngoài rừng,
cho bài thuốc cứu người
Sau những thủ tục đó, mế mới lấy một ít lá trong túi thuốc ra băm nhỏ rồi gói vào một chiếc
túi. Trước khi gói, mế dùng dao cạo đồng bạc có khắc 4 chữ Nho vào gói thuốc. Gói xong túi
thuốc, mế dùng kim chọc nhiều lần vào gói thuốc đó.
Mế châm thuốc.
Vừa chọc mế vừa "mằn" (đọc những câu thần chú) vào gói thuốc. Khi đã xong hết các thủ
tục, mế mới đưa cho mỗi người 2 gói, mế Viển căn dặn: Nếu là trẻ con phải treo thuốc cách
người 7 - 9m, người lớn 2 - 3m. Khi treo thuốc người bị bệnh cảm thấy dễ chịu là được. Nếu
treo gần quá người bệnh sẽ khó ở, treo cao quá thuốc sẽ không hiệu nghiệm.
Mế Viển học được bài thuốc này từ mẹ. Nghe các cụ kể lại, ngày ấy cụ cố của mế Viển có
việc ra Đông Triều (Quảng Ninh) chơi. Trời tối, cụ có nghỉ nhờ ở một gia đình người gốc Hoa.
Đúng hôm đó, con dâu của ông chủ nhà đau đẻ. Ông chủ nhà vốn là người có bài thuốc treo
chữa gãy xương rất tài tình nhưng về phụ khoa lại không biết.
Đúng lúc đó, cụ cố đã dùng bài thuốc gia truyền của người Mường giúp cô con dâu của ông
chủ nhà sinh hạ được an toàn. Để cảm ơn người khách, chủ nhà cũng dạy lại cho cụ cố bài
thuốc chữa gãy xương kèm theo hai đồng tiền có khắc chữ Nho. Ông này gọi bài thuốc đó là
chữa gãy xương bằng phương pháp cách bức.
Từ đó cụ cố mới biết bài thuốc này. Trải qua mấy đời, các cụ đều dùng bài thuốc này chữa
gãy xương cho người dân quanh vùng. Tính đến đời mế Viển đã là đời thứ 7.
Lựa chọn sinh tử
Trước khi lên núi tìm gặp mế Viển, chúng tôi đã gặp được "bệnh nhân" của mế, đó là anh
Bùi Văn Đông ở xóm Yên Tân, xã Lạc Lương. Nhà anh vốn nghèo khó, những ngày giáp hạt,
anh phải vào rừng đào củ mài, củ nâu về ăn.
Một hôm thấy anh đi từ sáng đến tối chưa về, vợ anh nóng ruột nhờ anh em vào rừng tìm
giúp. 10 thanh niên tìm hết cánh rừng này đến cánh rừng khác mà vẫn chưa thấy anh. Sau
gần hai ngày tìm kiếm mọi người mới tìm thấy anh ở một khe núi. Anh bị 2 hòn đá to đè lên
chân và nằm bất tỉnh.
Khi người nhà đưa anh đến bệnh viện đôi bàn chân của anh đã nát bét. Các bác sĩ bảo:

Muốn cứu anh Đông chỉ còn cách cưa đôi chân. Nếu để lâu, vết thương sẽ nhiễm trùng và
càng khó chữa. Nghe bác sĩ bảo vậy, anh Đông nghĩ, giờ mà cắt đôi chân đi coi như mình là
người tàn phế, cả đời ăn bám vợ con.
Giữa sự lựa chọn sinh tử, anh mới chợt nhớ ra là mấy đứa con nhà mình từng bị gãy tay
được mế Viển ở xóm Đồi chữa thuốc lá khỏi. Giờ cứ thử để mế Viển chữa cho xem sao. Ngay
hôm sau, anh xin xuất viện. Vừa về đến nhà, anh đã cử người đi đón mế xuống. Xem qua
vết thương của Đông, mế Viển lắc đầu: Cái này khó đấy. Tôi cũng chỉ thử thôi, chứ chân
cẳng nát bét như thế này thì ít hy vọng lắm. Thôi còn nước còn tát.
Mế Viển dùng một chiếc ống tre thổi vào vết thương giúp Đông bớt đau. Sau đó mế Viển
dùng một gói thuốc treo lên đình màn. Cứ sau 3 ngày, bà lại đến thay thuốc một lần. Sau
hai tháng chữa trị, bệnh tình của Đông đã thuyên chuyển.
Anh Đông nhớ lại, khi ấy 2 bàn chân đã dập nát của mình như có người dùng tay vun chúng
lại. Những cơn đau cũng dần qua đi, thay vào đó là một cảm giác thật dễ chịu lan tỏa khắp
cơ thể. Giờ thì anh có thể đi lại được. Tuy không làm được việc nặng như trước nhưng anh
vẫn lên nương làm rẫy bình thường.
Từ chỗ không tin
Một trường hợp khác là ông Bùi Văn Sĩ. Năm ngoái lần đầu đi tập xe máy, ông va phải con
bò và bị rơi xuống cống. Ông bị gãy chân. Bệnh viện thì ở xa, mọi người khuyên ông nên
đến mế Viển lấy thuốc.
Thực ra sống ở rừng núi bao đời nay nhưng ông cũng không tin lắm về bài thuốc treo của
mế Viển. Con cái vận động mãi, nhưng ông nhất định từ chối. Vì thương bố nên mấy đứa
con đã tự lên nhà mế Viển lấy thuốc. Về nhà chúng bí mật treo gói thuốc lên trên đình màn.
Nhờ bài thuốc đó mà ông Sĩ không kêu đau nữa.
Sau 3 ngày, đôi chân của ông có thể cử động được mà không đau. Đến lúc này, các con mới
nói với ông: Bố đi lại được là nhờ bài thuốc của mế Viển đấy. "Chúng bay láo! Tao có uống
thuốc bao giờ đâu mà khỏi", ông quát mấy đứa con.
Anh Bùi Văn Đông có được đôi chân lành lặn là nhờ bài thuốc của mế Viển.
Lúc ấy người con trai cả mới chỉ tay lên đình màn: "Cái gói thuốc nho nhỏ treo trên cao kia
là thuốc của bà Viển đấy ". Lúc đó ông Sĩ mới tin bài thuốc của mế Viển hiệu nghiệm.
Không chỉ anh Đông và anh Sĩ được chữa khỏi bệnh, hầu như các gia đình ở huyện Lạc Thuỷ

có con, cháu không may bị gãy chân, gãy tay đều được mế Viển chữa giúp. Họ đều mế Viển
là ân nhân của gia đình. Nhiều người còn cho con, cháu nhận mé Viển là mế nuôi (mẹ nuôi).
Tài nghệ chữa xương của mế Viển đã vượt qua những dãy núi đá của Yên Thuỷ về xuôi. Rất
nhiều người ở Hà Nội, Thái Bình, Nam Định đã cất công lên tận xóm Đồi đón mế Viển về
tận nhà chữa gãy xương cho người thân.
Khó lý giải
Từ ngày được truyền nghề, số người đến mế Viển lấy thuốc ngày một đông. Suốt mấy chục
năm qua, mế Viển cũng không nhớ mình đã chữa khỏi cho bao nhiêu người nữa. Chỉ vào
đống vỏ chai khổng lồ chất đầy từ ngoài cổng đến chân cầu thang nhà sàn, mế Viển bảo:
"Mỗi người đến mang theo một chai rượu, nhìn vào số chai là biết được khách đến đây. Tôi
chữa bệnh chẳng phải tiền bạc gì nhưng chai rượu là thứ không thế thiếu để làm lễ".
Chữa xương bằng cách treo thuốc quả là lạ đời. Tôi cũng không có ý cổ xuý cho những cách
chữa bệnh thiếu cơ sở khoa học. Thế nhưng, tiếp xúc với nhiều bệnh nhân của mế Viển,
cũng như biết được các thầy lang người Mường vốn có nhiều bài thuốc bí ẩn nên những hoài
nghi của tôi dần được xóa mờ.
Mế Viển và thang thuốc của mình.
Ông Bùi Văn Vẻ, trạm trưởng Trạm Y tế xã Lạc Lương cho biết, bài thuốc của bà Viển ông đã
nghe nói từ lâu. Thực tế, không chỉ người dân địa phương, nhiều người nơi khác đến chữa
rất nhiều. Còn tác dụng, hiệu quả của bài thuốc này như thế nào thì ông không rõ lắm.
Nhưng có một điều ông biết là ông bạn đồng nghiệp của ông, hồi nhỏ đã từng bị gãy chân
và đến bà Viển nhờ chữa.
Kết quả là ông bạn đó khỏi thật và chỉ sau vài ngày đã đi lại được. Tuy nhiên, ông vẫn
khuyên ai không may bị gãy chân, gãy tay nên đi viện là tốt nhất. Bởi lẽ, đến nay chưa ai lý
giải một cách khoa học về bài thuốc của bà Viển. "Phải chữa khỏi thì mọi người mới đến",
ông Vẻ khẳng định.
Người đàn ông ung thư không chết và bãi đá
kì lạ
Thứ Tư, ngày 20/01/2010, 15:00
(Tin tuc) - Ông Trần Ngọc Lâm vốn bị bệnh ung thư phổi, bị bệnh viện trả về chờ chết. Tuy
nhiên, nhờ có kỳ duyên với các thiền sư Tây Tạng, ông đã học được bài thuốc bí truyền, nên vẫn

sống khỏe đến ngày hôm nay.
Tin Tức, Tin HOT trong ngày được cập nhật liên tục từng giờ tại Tin Tức Trong Ngày
Mới đây, ông Trần Ngọc Lâm, người sống hơn 10 năm nay trên đỉnh Fansipan, xuống núi
thông báo với tôi rằng, ông đã phát hiện một bãi đá có hình khắc trong đại ngàn Hoàng Liên
Sơn.
Ông Lâm đề nghị tôi lập tức vào trong rừng để tìm hiểu, viết bài, nhằm kêu gọi các nhà
khoa học nghiên cứu, bảo tồn trước khi nó biến mất.
Một hòn đá cổ có hình khắc ở thung lũng Mường Hoa.
Ông Trần Ngọc Lâm vốn bị bệnh ung thư phổi, bị bệnh viện trả về chờ chết. Tuy nhiên, nhờ
có kỳ duyên với các thiền sư Tây Tạng, ông đã học được bài thuốc bí truyền, nên vẫn sống
khỏe đến ngày hôm nay.
Để có thuốc chữa bệnh, ông phải định cư trong một cái hang nhỏ trên độ cao 2.900m, gần
đỉnh Fansipan. Hàng ngày, ông ngồi thiền trong giá lạnh để cái lạnh âm độ hạn chế sự phát
triển của khối u, rồi lang thang đi khắp đại ngàn Hoàng Liên Sơn tìm những cây thuốc quý.
Ông Lâm sống hơn 10 năm nay trong một cái hang trên độ cao 2.900m trên núi Fansipan.
Hàng ngày, ông lang thang trong rừng Hoàng Liên Sơn để tìm cây thuốc quý.
Hơn 10 năm trời lang thang trong Vườn Quốc gia Hoàng Liên Sơn, ông Lâm đã phát hiện ra
nhiều điều thú vị trong khu rừng ít dấu chân người này.
Trong những lần xuyên rừng đi tìm các loài kỳ hoa dị thảo cùng ông Lâm, đôi lúc, ông cứ úp
mở nói với tôi rằng, các nhà khoa học, từ thời Pháp đến bây giờ, vẫn chưa phát hiện hết
được bãi đá cổ Sapa. Đâu đó trong khu vườn rộng lớn này, vẫn có những hòn đá có hình
khắc cổ…
Vài lần tôi gặng hỏi, nhưng ông Lâm chỉ im lặng. Cho đến gần đây, ông bất ngờ gọi điện bảo
tôi lên gấp để đi xem bãi đá cổ có hình khắc trong rừng.
Theo ông Lâm, ông phát hiện bãi đá cổ này từ 3 năm trước, trong một chuyến đi vòng sang
bên kia đỉnh Fansipan, sang đất Lai Châu, rồi vòng về Trạm Tôn.
Khi xuyên qua cách rừng vân sam, với những thân cây ngàn tuổi, gốc mấy người ôm, cao
40-50m để tìm nấm phục linh, một loại nấm ngàn năm, giá trị hơn vàng, ông đã phát hiện
ra một bãi đá cổ, mà trên mặt những khối đá đều có hình khắc.
Những khối đá này nằm dưới tán rừng pơ-mu ngút ngát tầm mắt. Những khối đá cổ đen xì

đen xịt, ẩm ướt có những hình khắc loằng ngoằng, sâu hoắm, đã gây sự chú ý cho “người
rừng” Trần Ngọc Lâm.
Sự bảo tồn bãi đá cổ Sapa không khoa học
Đã khiến hình khắc trên bãi đá cổ Sapa sắp biến mất.
Ông Lâm bảo, ông đã từng vài lần đi theo các nhà khoa học vào bãi đá cổ Sapa ở thung lũng
Mường Hoa, thuộc các xã Hầu Thào, Tả Van. Ông cũng đã tận mắt cả chục hòn đá có hình
khắc ở bãi đá này, nên hiểu đôi chút về những viên đá cổ và những hình khắc cổ xưa.
Do đó, ngay khi tận mắt những khối đá đen xì giữa đại ngàn Hoàng Liên Sơn, ông Lâm biết
ngay đây là những hình khắc cổ. Với kinh nghiệm đi rừng, sống với đồng bào dân tộc nhiều
năm, ông cũng chắc chắn rằng, những hình khắc này không phải do con người thời hiện đại
tạo nên.
Đại ngàn Hoàng Liên Sơn rộng mênh mông, ngút tầm mắt. Những dãy núi đá vôi trập trùng,
những thung lũng hiểm trở chỉ có vết chân thú, không có dấu chân người. Những hòn đá cổ
đã nằm im lìm giữa sườn núi, trong đại ngàn hàng triệu năm nay.
Ông Lâm cũng chính là người đã dẫn tôi đi thăm bãi đá cổ Sapa từ mấy năm trước và ông
lên án mạnh mẽ cái cách bảo tồn bảo tàng thiếu trách nhiệm của ta. Những hòn đá tuổi đời
trăm triệu, những hình khắc đã có từ ngàn năm, vậy mà chỉ vài năm đã tan nát bởi du lịch,
bởi sự thiếu ý thức của con người.
Vì lẽ đó, khi phát hiện bãi đá cổ có hình khắc trong đại ngàn Hoàng Liên Sơn, ông Lâm đã
yên lặng. Ông không kể chuyện này cho bất kỳ ai, kể cả lãnh đạo Vườn Quốc gia Hoàng
Liên, kể cả các đồng chí kiểm lâm, những người hàng ngày xuyên rừng, ngủ hang cùng ông
nhiều năm trời.
Ông Lâm sợ rằng, khi những hòn đá cổ có hình khắc này được công bố, các nhà khoa học
tìm vào nghiên cứu, rồi các dự án bảo tồn, rồi phát triển du lịch… Và rồi, những hình khắc sẽ
biến mất. Các nhà khoa học vẫn chưa tìm được câu trả lời. Và như vậy, ông sẽ là người có
lỗi với tổ tiên.
Ngay cả chuyện ông phát hiện, rồi hì hục mở ra con đường lên Fasipan ngắn nhất, nhanh
nhất, dễ đi nhất, tưởng là chiến công được người đời ghi tạc, nhưng thực tế, người ta đã bỏ
quên ông. Nhưng điều ông thấy đau nhất, đó là, khi con đường mở ra, du lịch phát triển,
Nhà nước thu lợi chẳng bõ bèn, nhưng rừng bị tàn phá từng ngày, những con thú cuối cùng

đang bị tiêu diệt, những cây thuốc quý chảy tuồn tuột ra nước ngoài…
Nhưng bí mật về bãi đá cổ có hình khắc trong đại ngàn Hoàng Liên Sơn ấy ông không giữ
được mãi. Bởi vì, mới đây, khi xuyên qua đại ngàn vân sam, ông đã giật mình khi thấy một
con đường mòn mới mở. Trên con đường mòn ấy, lâm tặc cùng với trâu mộng rồng rắn kéo
gỗ như đàn kiến nhẩn nha suốt ngày đêm.
Những bước chân bầm dập của đàn trâu, những cú va chạm của những súc gỗ, đến núi cũng
mòn, đá cũng nát, nói chi đến những hình khắc mềm mại, dễ vỡ kia!
Ông Lâm đã chết lặng khi thấy con đường kéo gỗ ấy đè nghiến lên những khối đá cổ có hình
khắc kỳ lạ. Ông lại phải đau lòng mà rằng, nếu không công bố để các nhà khoa học nghiên
cứu, thì những hình khắc trên bãi đá sẽ vĩnh viễn biến mất dưới bước chân đàn trâu mộng.
Vậy là, tôi cùng ông Lâm, với cơm nắm, bánh mỳ, thịt hộp, túi ngủ… lên đường vào đại ngàn
Hoàng Liên Sơn.
Những dấu hỏi lớn quanh vết chân khổng lồ
Thứ Tư, ngày 20/01/2010, 09:45
(Tin tuc) - Thấy tôi gọi, một đàn ông trạc 60 cầm phấn ra ghi số vé. Đi theo đoàn người chủ yếu
là thanh niên và phụ nữ ra sát bờ sông, tôi thấy ngót trăm người đang xúm quanh một phiến đá
lớn, đúng ra là một ghềnh đá lớn khiến Sông Lô đổi dòng.
Tin Tức, Tin HOT trong ngày được cập nhật liên tục từng giờ tại Tin Tức Trong Ngày
Nhiều ngày nay, tại phường Bến Gót, TP Việt Trì, Phú Thọ, ở khu vực cảng Việt Trì, người
người ùn ùn về xem vết chân lớn in hằn trên phiến đá ven sông Lô. Những bát nhang, nải
quả để thờ vọng vừa đặt lên bàn chân khổng lồ khiến nơi đây vốn thanh bình trở nên huyên
náo.
Còn một vết chân khổng lồ khác?
Con đường dẫn chúng tôi ra cảng bụi tung mù mịt bởi những đoàn xe ra vào tấp nập. Cuối
cùng, chúng tôi cũng đến một bãi đất rộng nơi có tấm biển “Nhận trông xe giá 2.000 đồng/
lượt”.
Thấy tôi gọi, một đàn ông trạc 60 cầm phấn ra ghi số vé. Đi theo đoàn người chủ yếu là
thanh niên và phụ nữ ra sát bờ sông, tôi thấy ngót trăm người đang xúm quanh một phiến
đá lớn, đúng ra là một ghềnh đá lớn khiến Sông Lô đổi dòng.


Vết chân khổng lồ ở Bến Gót.
Một dấu chân trái rõ nét có đầy đủ cả năm ngón như ai đó bước từ dưới sông lên để lại trên
nền cát non. Tôi loay hoay ngắm nghía ở mọi góc cạnh rồi tranh thủ chụp mấy tấm hình làm
tư liệu.
Có người bảo, đây rõ ràng do ai đó thuê thợ đá Hải Lựu về làm thành vết chân này. Từ vết
chân đến mép nước khoảng 3,5 mét. Theo dân địa phương, những năm trước, tảng đá này
chìm dưới nước.
Trỏ sang hữu ngạn sông Lô, một bà cụ đang đứng nhai trầu ngắm nhìn đoàn người hiếu kỳ
nói: “Đấy là chùa Bạch Hạc hay còn gọi là chùa Đại Bi”. “Theo cụ vết chân ở dưới kia có từ
bao giờ, thưa cụ”.
“Thế anh nghĩ ngẫu nhiên mà nơi đây lại có tên là Bến Gót hả? Bên kia cũng có một vết
chân nhưng là chân phải và do người ta đục đá thành".
Hoài nghi Bến Gót
Ông Phạm Xuân An đã đến định cư tại khu phố 25 phường Bến Gót này từ năm 1983. Khi
được hỏi về vết chân khổng lồ dưới ven sông, ông kể: “Nhiều người khi đến đây xem vết
chân rồi bàn tán là do ai đó tạo nên để nhằm mục đích nào đó. Năm 1983, tôi về ở đất này
cho đến nay, nghỉ hưu nhiều năm rồi. Nhưng tôi chưa từng thấy ai đến đây đục đẽo cả.
Ngày trước không ai nhìn thấy vết chân này được là bởi tảng đá lớn đó chìm dưới nước sông.
Năm nay, nước cạn quá, phiến đá lộ ra nhiều ngày rồi nhưng đất cát lấp đầy ai thấy đâu.
Mới đây, khi trong khu trại giam tát ao cá bơm nước ra sông và đất cát trôi đi mới thấy.
Nhớ lại cách đây mấy chục năm, khi tôi mới đến ở đất này, tôi được nghe các bậc cao niên
kể lại là tính từ dưới Kiểm lâm lên đến trạm thủy văn có một vết chân nhưng dân trong
vùng không ai thấy và liệu đây có phải không thì tôi cũng chịu”.
Một giáo viên Trung tâm giáo dục thường xuyên thành phố Việt Trì, thầy giáo Chu Văn
Huỳnh niềm nở tiếp chúng tôi: “Tôi sống ở đây từ năm 1976 và đến bây giờ cũng mới biết
có vết chân này. Tuy nhiên, tôi được biết dấu tích của vết chân khổng lồ này đã có sự tu tạo
của con người. Ngày trước, dấu tích chỉ là một vết lõm hình gót chân thôi và người ta chủ
động làm nó rõ nét hơn. Cái tên cổ ở vùng này là Vật Trì - Bến Gót.
Vùng đất này có những cái tên địa danh gắn liền với nhau như Bến Gót, nơi có gót chân
người. Bên kia sông là Bạch Hạc, nơi có cò trắng đậu. Tam Giang là vùng ngã ba sông. Tất

nhiên, vết chân kia hoàn toàn có ý nghĩa với tên Bến Gót của quê tôi”.
Ông Trần Anh Ký - Chủ tịch UBND phường Bến Gót, cho biết: “Đây là vấn đề mới nảy sinh
tại địa phương, việc này khiến lãnh đạo phường đau đầu nhiều ngày nay và đang xin ý kiến
chỉ đạo của thành phố”.
Theo ông Ký, vết chân đó là do con người tạo ra để đánh đấu tên địa danh của mình. Hiện
tại, chính quyền đang ra sức can thiệp để tránh tình trạng mê tín dị đoan. Ông Ký khẳng
định, vết chân là do người ta mới tạo nên vài năm nay, nhưng chưa biết cụ thể năm nào.

×