Tải bản đầy đủ (.pdf) (14 trang)

Tổng hợp Đề thi HSG cấp quốc gia qua các năm_3 doc

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (257.9 KB, 14 trang )

Tổng hợp Đề thi HSG cấp
quốc gia qua các năm


BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

ĐỀ THI HỌC SINH GIỎI QUỐC GIA NĂM 2001


BẢNG A

Nhà văn Bùi Hiển đã phát biểu khẳng định ý nghĩa đặc biệt của tiếng nói
tri âm trong văn chương:

“Ở nước nào cũng thế thôi, sự cảm thông, sẻ chia giữa người đọc và
người viết là trên hết”.
(Báo Văn nghệ, số ra ngày 10 – 02 – 2001)

Anh/Chị có suy nghĩ gì về vấn đề này ?

Hãy phân tích hai bài thơ "Độc Tiểu Thanh kí" của thi hào Nguyễn Du
và "Kính gửi cụ Nguyễn Du" của nhà thơ Tố Hữu để làm rõ tiếng nói tri
âm ở mỗi bài.


BẢNG B

"Rừng xà nu" của Nguyễn Trung Thành, "Những đứa con trong gia
đình" của Nguyễn Thi và "Mảnh trăng cuối rừng" của Nguyễn Minh
Châu đều là những truyện ngắn hay đã khám phá, ca ngợi vẻ đẹp của
con người Việt Nam trong cuộc kháng chiến chông Mỹ cứu nước.



Anh/ chị hãy so sánh để làm rõ những khám phá, sáng tạo riêng của mỗi
tác phẩm trong sự thể hiện chủ đề chung đó.

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

ĐỀ THI HỌC SINH GIỎI QUỐC GIA NĂM 2002



BẢNG A

Theo Xuân Diệu, “Trong thơ Nôm của Nguyễn Khuyến, nức danh nhất
là ba bài thơ mùa thu: Thu điếu, Thu ẩm, Thu vịnh”.

( Nguyễn Khuyến, về tác gia tác phẩm,
NXB Giáo dục, 1990, trang 160)

Anh/Chị hãy phân tích những sáng tác trên trong quan hệ đối sánh để
làm nổi bật vẻ đẹp độc đáo của từng thi phẩm, từ đó nêu vắn tắt yêu cầu
đối với một tác phẩm văn học.


BẢNG B
Cảm nhận của anh/chị về hình tượng người nông dân - nghĩa sĩ trong bài
"Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc" của nhà thơ Nguyễn Đình Chiểu.

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

ĐỀ THI HỌC SINH GIỎI QUỐC GIA NĂM 2000




BẢNG A

Nhận xét về sáng tác của Thạch Lam, Nguyễn Tuân viết:

“Xúc cảm của nhà văn Thạch Lam thường bắt nguồn vả nảy nở lên từ
những chân cảm đối với những con người ở tầng lớp khó nghèo. Thạch
Lam là một nhà văn quý mến cuộc sống của mọi người xung quanh.
Ngày nay đọc lại Thạch Lam, vẫn thấy đầy đủ cái dư vị và cái nhã thú
của những tác phẩm có cốt cách và phẩm chất văn học”.

(Theo Tuyển tập Nguyễn Tuân, tập III, NXB Văn học, Hà Nội, 1996,
trang 375)

Anh/Chị hiểu ý kiến trên như thế nào? Dựa vào một số sáng tác của
Thạch Lam, hãy chứng minh ý kiến đó.


BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

ĐỀ THI HỌC SINH GIỎI QUỐC GIA NĂM 2004



BẢNG A

Câu 1: Nhà phê bình Hoài Thanh viết:


“Thích một bài thơ, theo tôi nghĩ, trước hết là thích một cách nhìn, một
cách nghĩ, một cách xúc cảm, một cách nói, nghĩa là trước hết là thích
một con người”.

(Tuyển tập Hoài Thanh, tập II, Nhà xuất bản Văn học, Hà Nội, 1982)

Anh/Chị suy nghĩ như thế nào về ý kiến trên?


Câu 2: Phân tích vẻ đẹp của đoạn văn sau đây:

(…) Đêm hôm ấy, lúc trại giam tỉnh Sơn chỉ còn vẳng tiếng mõ trên
vọng canh, một cảnh tượng xưa nay chưa từng có, đã bày ra trong một
buồng tối chật hẹp, ẩm ướt, tường đầy mạng nhện, đất bừa bãi phân
chuột, phân gián.

Trong một không khí khói tỏa như đám cháy nhà, ánh sáng đỏ rực của
một bó đuốc tẩm dầu rọi lên ba cái đầu người đang chăm chú trên một
tấm lụa bạch còn nguyên vẹn lần hồ. Khói bốc tỏa cay mắt làm họ dụi
mắt lia lịa.

Một người tù, cổ đeo gông, chân vướng xiềng đang dậm tô nét chữ trên
tấm lụa trắng tinh căng trên mảnh ván. Người tù viết xong một chữ, viên
quản ngục lại vội khúm núm cất những đồng tiền kẽm đánh dấu ô chữ
đặt trên phiến lụa óng. Và cái thầy thơ lại gầy gò thì run run bưng chậu
mực. Thay bút con, đề xong lạc khoản, ông Huấn Cao thở dài, buồn bã
đỡ viên quản ngục đứng thẳng người dậy và đỉnh đạc bảo:

- Ở đây lẫn lộn. Ta khuyên thầy Quản nên thay chốn ở đi. Chỗ này
không phải là nơi để treo một bức lụa trắng với những nét chữ vuông

tươi tắn nó nói lên những cái hoài bão tung hoành của một đời con
người. Thoi mực, thầy mua ở đâu mà tốt và thơm quá. Thầy có thấy mùi
thơm ở chậu mực bốc lên không? Tôi bảo thưc đấy, thầy Quản nên tìm
về nhà quê mà ở đã, thầy hãy thoát khỏi cái nghề này đi đã, rồi hãy nghĩ
đến chuyện chơi chữ. Ở đây khó giữ thiên lương cho lành vững và rồi
cũng đến nhem nhuốc mất cả đời lương thiện đi.

Lửa đóm cháy rừng rực, lửa rụng xuống nền đất ẩm phong giam, tàn lửa
tắt nghe xèo xèo.

Ba người nhìn bức châm, rồi lại nhìn nhau.

Ngục quan cảm động, vái người tù một vái, chắp tay nói một câu mà
dòng nước mắt rỉ vào kẽ miệng làm cho nghẹn ngào: “Kẻ mê muội này
xin bái lĩnh”.

(Nguyễn Tuân – Chữ người tử tù – Văn học 11, tập 1,
Nhà xuất bản Giáo dục, Hà Nội, 2000)


BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

ĐỀ THI HỌC SINH GIỎI QUỐC GIA NĂM 2005


BẢNG A

Nói về thơ, Nguyễn Công Trứ có câu: “Trót nợ cùng thơ phải chuốt
lời”(1), còn Tố Hữu lại cho rằng: “Thơ là tiếng nói hồn nhiên nhất của
tâm hồn con người”(2).


Anh/Chị hãy giải thích, bình luận và làm sáng tỏ các ý kiến trên.




1. Dẫn theo Xuân Diệu – Công việc làm – NXB Văn học, Hà Nội, 1984,
tr.144
2. Tố Hữu – Xây dựng một nền văn nghệ lớn xứng đáng với nhân dân ta,
với thời đại ta – NXB Văn học, Hà Nội, 1973, tr.440



Tuy bộ đề trên chưa thực sự đầy đủ nhưng Wood cũng rút ra 1 số
comments chung chung thế này:


¤ Từ khoảng thời kỳ 9-10 năm về trước, tức là các đề năm 2000, 2001 và
2002: 1 đề = 1 câu. Trong suốt cả 3 tiếng đồng hồ, ta có thể bình tĩnh
ngồi ngoáy một mạch một bản sớ dài cỡ 12 trang giở lên mà không cần
bẻ hướng suy nghĩ.

Tất cả các đề đều có dạng:

- Mổ xẻ 1 câu nói nào đó mang tính triết lý, nghe rất hay và thường là rất
khó hiểu với người bình thường (Lý luận văn học).

- Mổ xẻ 1 số bài thơ, tác phẩm để cổ vũ cho triết lý trên (Cảm thụ văn
học)



¤ Đề năm 2004: nó giật cho 1 phát tung người với 1 đề = 2 câu. Ta buộc
phải phân bố lại thời gian cho hợp lý theo 1 vài tỉ lệ kiểu 5-5, 4-6 hay
4,5-5,5. Tuy nhiên ta ko nhất thiết phải mổ xẻ 2 thứ cùng 1 lúc như 3 đề
bên trên. Lý luận văn học rơi vào câu 1, cảm thụ văn học rơi vô câu 2.


¤ Đề năm 2005: ko có gì để bình luận. Có vẻ như bộ sợ các em học sinh
sốc quá nên lại quay về 1 đề = 1 câu

Đề năm 2007: hiệu điện thế tăng đột ngột : 1 đề = 3 câu. Điều thú vị
trong đề lần này là:

- Câu 1 nhắm vào 2 nhân-vật-không-phải-người-Việt-Nam: bác Karl
Marx và bác Friedrich Engels đến từ Đức. Nó lại cũng chả nhắm gì vào
văn học cả nên ta yên tâm giở bài triết học ra ở đây. Kinh nghiệm của
Wood cho thấy những ai hay lý luận/sự mà hay đọc manga thì làm rất
chuẩn câu này

- Câu 2 bắt đầu lai lai, cái lạ duy nhất của nó là không trích dẫn trực tiếp
ý kiến của 1 ai cả mà lại dùng chủ ngữ phiếm chỉ: "Có ý kiến cho
rằng ".

- Câu 3 là 1 câu với mệnh lệnh ko thể nào đơn giản hơn: "cảm nhận của
anh chị về ABC", "phân tích bài XYZ",


Kết luận:

Với một quỹ đạo chuyển động dị dạng như trên ở môn Văn nói riêng và

tất cả các môn nói chung, tốt nhất là chúng ta đừng bao giờ quá bận tâm
vào lời nói hoặc những tin đồn đến từ bộ cả. Cứ học đại đi, học cho hết
cỡ vào, đằng nào thì học sinh VN cũng thuộc dạng trâu bò nhất nhì thế
giới mất

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

ĐỀ THI HỌC SINH GIỎI QUỐC GIA NĂM 2009


Câu 1 (8,0 điểm):

Suy nghĩ của anh/chị về cái danh và cái thực của con người trong cuộc
sống.


Câu 2 (12,0 điểm):

Thơ nữ viết về tình yêu thường thể hiện sâu sắc bản lĩnh và ý thức về
hạnh phúc của chính người phụ nữ.

Hãy phân tích, so sánh bài thơ "Tự tình" (bài II) của Hồ Xuân Hương và
"Sóng" của Xuân Quỳnh để làm rõ nét chung và nét riêng trong tâm sự
tình yêu của hai nữ tác giả ở hai thời đại khác nhau.


Tự tình
(Bài II)

Hồ Xuân Hương


Đêm khuya văng vẳng trống canh dồn
Trơ cái hồng nhan với nước non
Chén rượu hương đưa, say lại tỉnh
Vầng trăng bóng xế, khuyết chưa tròn
Xuyên ngang mặt đất, rêu từng đám
Đâm toạc chân mây, đá mấy hòn
Ngán nỗi xuân đi xuân lại lại
Mảnh tình san sẻ tí con con.

(Theo Ngữ Văn 11, Nâng cao, Tập Một, NXB Giáo dục, 2007, tr.44)

Sóng

Xuân Quỳnh

Dữ dội và dịu êm
Ồn ào và lặng lẽ
Sông không hiểu nổi mình
Sóng tìm ra tận bể

Ôi con sóng ngày xưa
Và ngày sau vẫn thế
Nỗi khát vọng tình yêu
Bồi hồi trong ngực trẻ

Trước muôn trùng sóng bể
Em nghĩ về anh, em
Em nghĩ về biển lớn
Từ nơi nào sóng lên?


Sóng bắt đầu từ gió
Gió bắt đầu từ đâu?
Em cũng không biết nữa
Khi nào ta yêu nhau

Con sóng dưới lòng sâu
Con sóng trên mặt nước
Ôi con sóng nhớ bờ
Ngày đêm không ngủ được
Lòng em nhớ đến anh
Cả trong mơ còn thức

Dẫu xuôi về phương bắc
Dẫu ngược về phương nam
Nơi nào em cũng nghĩ
Hướng về anh – một phương

Ở ngoài kia đại dương
Trăm ngàn con sóng đó
Con nào chẳng tới bờ
Dù muôn vời cách trở

Cuộc đời tuy dài thế
Năm tháng vẫn đi qua
Như biển kia dẫu rộng
Mây vẫn bay về xa

Làm sao được tan ra
Thành trăm con sóng nhỏ

Giữa biển lớn tình yêu
Để ngàn năm còn vỗ.

Biển Diêm Điền, 29-12-1967
(Theo Ngữ Văn 12, Nâng cao, Tập Một, NXB Giáo dục, 2008, tr.122-
124)

×