Tải bản đầy đủ (.pdf) (5 trang)

Chữa bệnh lý xương khớp bằng Đông y pot

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (130.69 KB, 5 trang )


Chữa bệnh lý xương khớp bằng Đông y



Theo Đông y, tất cả các bệnh đau nhức khớp xương, dù có sưng, nóng, đỏ hay chỉ
tê, mỏi, nặng ở khớp đều thuộc chứng Tý, nghĩa là tắc nghẽn, không thông. Nhiều
bài thuốc y học cổ truyền có tác dụng rất tốt với bệnh này.
Đông y cho rằng, so sức đề kháng của cơ thể không đầy đủ nên các yếu tố gây
bệnh cùng phối hợp xâm phạm đến kinh lạc ở cơ, khớp. Hậu quả là sự vận hành
của khí huyết bị tắc nghẽn, gây ra sưng đau, hoặc tê, mỏi, nặng ở một khu vực
khớp xương hoặc toàn thân.
Một số người chính khí hư suy vì mắc bệnh lâu ngày hoặc do cao tuổi, các chức
năng hoạt động cơ thể suy yếu nên khí huyết giảm sút, không nuôi dưỡng được
cân mạch, gây thoái hóa khớp xương và đau. Vì vậy, khi chữa các bệnh về khớp, y
học cổ truyền đều hướng tới lưu thông khí huyết ở gân, xương, đưa các yếu tố gây
bệnh (phong hàn, thấp, nhiệt) ra ngoài và phòng chống tái phát.
Các phương pháp điều trị bao gồm: tập luyện vận động, dưỡng sinh, xoa bóp,
chườm nóng, ăn uống và châm cứu; dùng thuốc bên ngoài (như đắp bó thuốc
ngoài khớp sưng đau) hoặc uống trong.

Trong điều trị, các thầy thuốc còn chú ý đến bệnh mới mắc hay đã lâu ngày, hoặc
tái phát nhiều lần. Nếu mới mắc thì dùng các phương pháp loại bỏ yếu tố gây bệnh
là chính. Nếu bệnh lâu ngày hoặc tái phát nhiều lần thì phải vừa nâng đỡ tổng
trạng, bổ khí huyết, vừa loại bỏ yếu tố gây bệnh.
Bệnh khớp không có biểu hiện sưng, nóng, đỏ
Triệu chứng chung là đau mỏi các khớp. Đau tăng khi mưa lạnh, ẩm thấp, thường
hay tái phát mỗi khi thay đổi thời tiết. Bệnh âm ỉ kéo dài, thường kèm theo các rối
loạn khác như rối loạn tiêu hóa, mất ngủ, ăn uống kém
Nếu bệnh thiên về Phong chứng, sẽ có thêm các biểu hiện như đau di chuyển các
khớp, đau nhiều khớp, thường là các khớp phần trên cơ thể như cổ, vai, khuỷu tay,


cổ tay, bàn ngón tay, đau đầu, sợ gió, rêu lưỡi trắng. Nếu bệnh thiên về Tháp
chứng, sẽ có thêm các biểu hiện đau cố định tại các khớp bệnh, không di chuyển,
kèm theo tê nặng mỏi là chủ yếu. Nếu thiên về Hàn chứng thì đau nhiều về đêm,
trời lạnh đau tăng, chườm nóng giảm đau, đau kiểu co thắt và buốt.
Bệnh nhân cần ăn uống đầy đủ chất, không kiêng khem quá đáng nếu không có
yêu cầu của thầy thuốc, chú ý ăn thức ăn giàu đạm, nhiều khoáng chất và vitamin,
uống nước đầy đủ (mỗi ngày trung bình từ 1,2 lít trở lên), không ăn uống nhiều
chất kích thích hoặc khó tiêu. Nên tập luyện nhẹ như đi bộ, tập thái cực quyền,
dưỡng sinh. Dùng gậy nếu là đau khớp gối hoặc khớp háng.
Chườm muối nóng vào các khớp đau như cột sống, vai, hoặc dùng đèn hồng ngoại
chiếu vào khớp đau. Chú ý liều lượng về thời gian chiếu đèn, tránh biến chứng
bỏng da cho bệnh nhân. Xoa bóp để tăng cường sự vận hành của khí huyết; châm
cứu giúp giảm đau, điều chỉnh sự tắc nghẽn khí huyết và bổ dưỡng.
Bài thuốc chung: Lá lốt, xấu hổ, quế chi, thiên niên kiện, thổ phục linh, hà thủ ô
mỗi thứ 12 g, cỏ xước 16 g, sinh địa 20 g. Nếu Phong chứng trội, thêm phòng
phong, khương hoạt mỗi vị 12 g. Nếu Thấp chứng trội, thêm ý dĩ 16 g, ngũ gia bì
12 g, tỳ giải 16 g. Nếu Hàn chứng trội, thêm can khương 4 g, phụ tử 8 g, xuyên
khung 12 g.
Nếu mắc bệnh đã lâu và tái phát nhiều lần, có thể dùng bài thuốc:
Khương hoạt, phòng phong, đương quy mỗi thứ 8 g, xích thược, khương hoàng,
hoàng kỳ mỗi thứ 12 g, cam thảo 6 g, gừng 4 g, đại táo 12 g.

Để phòng tái phát, dùng bài: Độc hoạt, phòng phong, tang ký sinh, ngưu tất, đỗ
trọng, tần giao, xuyên khung mỗi thứ 8 g; đương quy, bạch thược, sinh địa, đảng
sâm mỗi thứ 12 g, phục linh 9 g, cam thảo 6 g, quế tâm và tế tân mỗi thứ 4 g.
Bệnh khớp có sưng, nóng, đỏ
Ở giai đoạn cấp tính, các khớp sưng, nóng, đỏ, đau (hay xuất hiện đối xứng) ngày
nhẹ đêm nặng, co duỗi cử động khó khăn, sốt ra mồ hôi, sợ gió, rêu lưỡi vàng
mỏng, chất lưỡi đỏ, nước tiểu vàng. Dùng các bài thuốc:
- Thạch cao, kim ngân mỗi thứ 20 g, tri mẫu, hoàng bá, tang chỉ, phòng kỷ, ngạnh

mễ mỗi thứ 12 g, thương truật 8 g, quế chi 6 g, sắc uống ngày 1 thang. Nếu có
hồng ban hoặc khớp sưng đỏ nhiều, thêm đan bì 12 g, xích thược 8 g, sinh địa 20
g.
- Quế chi 8 g, tri mẫu, bạch thược, bạch truật, phòng phong, kim ngân hoa, liên
kiều mỗi thứ 12 g, cam thảo 6 g, ma hoàng 8 g, sắc uống ngày 1 thang.
Nếu các khớp sưng đau kéo dài, sốt nhẹ, ra nhiều mồ hôi, miệng khô, chất lưỡi đỏ,
mạch tế sác thì vẫn dùng được các bài thuốc trên, bỏ quế chi, thêm các thuốc bổ
âm như sinh địa, huyền sâm, địa cốt bì, sa sâm, miết giáp, thạch bộc
Ở giai đoạn mạn tính, bệnh nhân có thêm các biến chứng như biến dạng khớp, teo
cơ, dính cứng khớp. Dùng các bài thuốc ở phần trên, thêm nam tinh chế, xuyên
sơn giáp, bạch giới tử sao, đào nhân, hồng hoa mỗi thứ 8 g; bạch cương tàm 12 g.
Ngoài ra, nên xoa bóp tại các khớp bằng những thủ thuật ấn, day, lần, véo các
khớp và các cơ quanh khớp. Vừa xoa bóp vừa vận động các khớp là phương pháp
chủ yếu và quyết định kết quả chữa bệnh trong giai đoạn này.

×