Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (82.22 KB, 2 trang )
Chữa bệnh thủy đậu bằng Đông y Cập nhật lúc 14h03" , ngày 27/02/2008 -
Vào thời gian khoảng từ tháng 2 đến tháng 4 hằng năm, bệnh thủy đậu (varicella;
chickenpox) thường xuất hiện nhiều nhất. Trong dân gian, căn bệnh này còn được
gọi là phỏng dạ, bỏng rạ hoặc trái rạ.
Bệnh do vi-rút Varicella Zoster gây ra, có tính lây lan rất cao, mọi người đều có nguy cơ nhiễm bệnh, trong đó
đặc biệt là trẻ em từ 1 đến 6 tuổi. Thủy đậu không quá nguy hiểm nhưng không phải không có những biến
chứng nặng gây nguy hại đến tính mạng. Hơn nữa, vi-rút gây bệnh thủy đậu cũng chính là thủ phạm gây bệnh
giời leo (Zona), căn bệnh có thể được xem như một biến chứng muộn của thủy đậu. Bởi vậy, việc chữa trị
triệt để bệnh lý này là hết sức cần thiết.
Trong đông y, thủy đậu thuộc phạm vi các chứng bệnh như thủy hoa, thủy bào, thủysang, thủy chẩn... Theo
cổ nhân, bệnh phát sinh là do phong nhiệt thời độc từ bên ngoài xâm nhập vào cơ thể qua mũi miệng, kết hợp
với thấp trọc tích tụ lâu ngày bên trong gây ảnh hưởng chủ yếu đến hai tạng phế và tỳ, và phế chủ bì mao nên
tà khí trước tiên phát tiết ở ngoài da tạo nên các mụn nước trên mặt và toàn thân. Để chữa trị thủyđậu, đông y
chủ yếu sử dụng thuốc theo hai hướng: biện chứng luận trị và đơn phương nghiệm phương.
Biện chứng luận trị là biện pháp chọn dùng các vị thuốc và bài thuốc trên cơ sở chứng trạng và thể bệnh cụ
thể, có thể là nhiều bài thuốc khác nhau hoặc lấy một bài thuốc làm hạt nhân rồi tiến hành gia giảm tùy theo
bệnh trạng. Thông thường, thủy đậu được phân ra làm hai thể bệnh là Phong nhiệt kiêm thấp và Thấp nhiệt
uẩn kết. Với thể Phong nhiệt kiêm thấp biểu hiện bằng các chứng trạng như phát sốt, sợ lạnh sợ gió, chảy
nước mũi, ho húng hắng, họng sưng đau, các mụn nước hồng nhuận chứa dịch trong, ăn kém, đại tiểu tiện
bình thường, chất lưỡi hơi đỏ, rêu lưỡi trắng mỏng, mạch phù sác..., cổ nhân thường dùng bài Liên kiều tán
gia giảm sắc uống, gồm các vị: kim ngân hoa, liên kiều, ngưu bàng tử, bạc hà, kinh giới, lô căn, trúc diệp, ý dĩ,
bản lam căn hoặc dùng bài Ngân thạch thang (kim ngân hoa, sinh thạch cao, huyền sâm, tử thảo, trạch tả,
bạc hà, kinh giới).
Với thể Thấp nhiệt uẩn kết biểu hiện bằng chứng trạng như sốt cao, phiền táo, mặt đỏ môi đỏ, họng khô
miệng khát, thích uống nước lạnh, tiểu tiện sẻn đỏ, các mụn nước to dày và mau có màu đỏ hoặc tím chứa
dịch đặc và đục, trong niêm mạc miệng cũng mọc mụn nước dễ vỡ tạo thành các vết loét, chất lưỡi đỏ, rêu
lưỡi vàng dày và khô..., cổ nhân thường dùng bài Bạch hổ thang gia giảm sắc uống, gồm các vị: sinh thạch