Tải bản đầy đủ (.pdf) (7 trang)

Han Yong-Un và Hàn Mặc Tử: "Thơ ca của niềm im lặng" _1 ppsx

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (199.6 KB, 7 trang )

Han Yong-Un và Hàn Mặc Tử:
"Thơ ca của niềm im lặng"






1. NIỀM IM LẶNG CỦA NIM VÀ AI
Tập thơ Niềm im lặng của Nim xuất hiện vào những năm 20 thế kỷ trước đáp ứng
đòi hỏi của một thực tại đang cần một tiếng thơ mới ở Hàn Quốc. Tuy phong trào Thơ
Mới đã được thiết lập từ năm 1908 với bài Từ biển cả đến trẻ thơ của Choe Namson,
nhưng cả Choe cũng như các thi sĩ Chu Yohan, Kim Ok và Kim Sowol, dù sáng tạo nhiều
bài thơ được mọi người yêu thích, cái trữ tình của họ vẫn thiếu chiều sâu tư tưởng, thiếu
một triết lý giúp nó kết nối mộng và thực.
Với Niềm im lặng của Nim, Han Yong-Un đã giải thoát cho dòng thơ đương đại
đang có nguy cơ tắc nghẽn bằng một thứ thơ tự do mới lạ, vừa trữ tình vừa tâm linh, vừa
thực tại vừa huyền bí, mà chẳng cần mô phỏng các trào lưu văn học phương Tây. Tất
nhiên, không phải tác phẩm của họ không chịu ảnh hưởng từ bên ngoài. Bản
dịch Gitanjali (Thơ Dâng) của R. Tagore phổ biến ở Hàn Quốc vào năm 1923 cũng như
nhiều tập thơ khác của thi hào Ấn Độ đã gây cảm hứng nồng nhiệt; đó là thơ soi chiếu
thực tại huyền bí bằng giọng điệu của tình yêu. Trong Niềm im lặng của Nim có thể nghe
thấy dư vang của Gitanjali vàNgười giữ vườn.
Ở Ấn Độ, Tagore là một thánh sư (Gurudeva), còn ở Hàn Quốc, Han Yong-Un là
một cao tăng, một thiền sư. Tập thơNiềm im lặng của Nim với chín mươi bài thơ được
soạn ra như để làm mới lại khái niệm Nim, một đại từ có ý nghĩa rất đặc biệt và biến hóa
trong tiếng Hàn. Trong thơ tình, Nim là người yêu, bạn tình. Trong thơ đạo lý, Nim là
minh chủ, là nhà vua. Trong thơ tôn giáo, Nim là Phật, Chúa, Vĩnh cửu.
Có thể nói NIM vừa là chủ thể vừa là đối tượng trong tình yêu, là chính bản thân
tình yêu. Do đó, đất nước, cuộc đời, cái linh thiêng… đều có thể gọi là Nim. Tùy trường
hợp, có thể dịch Nim sang tiếng Việt là ngài, người, ai, anh, em…


Với Hàn, “đó là một điều ta ước vọng”.
Vậy thì Nim là du khách, ta là con thuyền:
Ta là con thuyền
Em là du khách
Em bước lên ta bàn chân bùn lấm
Ta ôm em mà thầm lặng băng sông
Khi ta ôm em, dù sâu hay cạn
Dù nước kia chảy xiết thế nào
Ta vẫn không ngừng vượt sóng…
(Bài 14)
Đó là một người khách huyền bí. Gần cũng như xa. Có mặt cũng như vắng mặt.
Người khách của niềm im lặng. Ta là kẻ đưa đón, kẻ chờ đợi. Ta sẽ già. Còn người khách
thì vĩnh cửu.
Người đọc có quyền nhìn thấy người khách như mình muốn, như bạn tình, như lịch
sử, như lý tưởng, như thần linh… Và có thể đọc bài thơ như một độc thoại nội tâm.
Vậy thì, Nim là của ta nhưng Nim cũng thuộc về mọi người. Trong bài Ngộ nhận,
Nim lại là một vầng trăng non đang lượn lờ trên cành cây cao. Và khi ta năn nỉ Nim hãy
xuống đi cho thì nàng nói:
Nào phải em không muốn xuống đâu,
Nhưng em là Nim của mọi người, anh ạ
Phải đâu muốn từ chối lời anh mời gọi ngát thơm hơi…
(Bài 26)
Sau đó, vầng trăng non im lặng nhìn ta qua cửa sổ. Và trái tim ta run lên khiếp sợ.
Cuối bài Niềm im lặng của một người tình là một điệu buồn:
Tình ta đi rồi nhưng ta đâu muốn
Bài tình ca ta hát phong kín niềm im lặng của tình yêu
(Bài 1)
Từ đại từ NIM của Hàn Long Vân đến với đại từ AI của Hàn Mặc Tử dường như là
một con đường của im lặng và đau thương.
Bắt đầu bằng một “ai” đầy quyền lực của tình yêu:

Tôi vẫn còn đây hay ở đâu
Ai đem tôi bỏ dưới trời sâu?
(Những giọt lệ)
Kẻ mà có thể đày đọa tôi, ném tôi xuống “dưới trời sâu” chỉ có thể là nữ chúa của
cõi tình.
Và đây là ai như một nghệ sĩ thượng thặng, sáng tạo từ lụa trời, chim bay, mây, lệ
đến cô liêu, thu vàng, sao lạ… mà chờ đợi một tri kỷ là người thơ.
Lụa trời ai dệt với ai căng
Ai thả chim bay đến Quảng Hàn…

Thu héo nấc thành những tiếng khô
Một vì sao lạ mọc phương mô?
Người thơ chưa thấy ra đời nhỉ?
Trinh bạch ai chôn tận đáy mồ?
(Cuối thu)
Niềm im lặng của mùa thu vừa được sáng tạo với bãi cô liêu, với buồn phơn phớt,
với vắng trơ vơ, với cây mảnh khảnh được thể hiện qua “những tiếng khô”, những âm
thanh khô, những điệu hát khô.
Rồi “ai” chính là hồn để tôi dắt đi chơi, dẫn hồn đi suốt đêm. Hai chúng tôi cùng im
lặng, cùng gào thét. Gọi là chúng tôi nhưng nào biết ai là ai.
Hồn là ai? Là ai? Tôi chẳng biết,
Hồn theo tôi như muốn cợt tôi chơi
Môi đầy hương tôi không dám ngậm cười,
Hồn vội mớm cho tôi bao ánh sáng…

Hai chúng tôi lặng yên trong thổn thức.
(Hồn là ai?)
Ta muốn níu hồn ai đương hiển hiện
Trong lòng và đang tắm máu sông ta.
Ta muốn vớt ai ra ngoài sóng điện,

Để nhìn em sắc mặt với làn da.
(Biển hồn ta)
Đó chỉ là một ảo giác? Không đâu, đó là một thứ “ai” chỉ có trong thơ Hàn Mặc Tử.
Cái ai của đau thương tuyệt đỉnh. Làm sao vớt được cái đau thương? Với Tử, toàn bộ thực
tại là đau thương.
Đến mức không còn ai hay ta nữa. Chỉ còn lại cái đau thương. Lẳng lặng, ngậm
miệng, nín hơi.
Ai đi lẳng lặng trên làn nước,
Với lại ai ngồi khít cạnh tôi?
Mà sao ngậm cứng thơ đầy miệng,
Không nói không rằng nín cả hơi!
Chao ôi! Ghê quá trong tư tưởng
Một vũng cô liêu cũ vạn đời
(Cô liêu)
Chỉ còn lại im lặng một vũng cô liêu. Không còn ai nữa. Người thơ như chưa
từng ra đời. Ngôn ngữ trở về với im lặng, với trinh bạch, với cái chết.
Để chỉ còn lại âm thanh của linh hồn:
Tiếng rú hồn tôi xô vỡ sóng
Rung tầng không khí, bạt vi lô.
(Cô liêu)
Cũng trong đêm cô liêu, nhà thơ Han Yong-Un cảm thấy:
Trên trời không có trăng
Dưới đất thì lặng gió
Cõi người ta im lặng
Cả tôi cũng vô hồn.
(Bài 6)
Cái đau thương của Hàn Mặc Tử và niềm im lặng của Han Yong-Un gặp nhau
trong đêm cô liêu.
2. NIỀM IM LẶNG CỦA TRĂNG VÀ THƠ
Trăng là ánh sáng, là hào quang của thơ Hàn Mặc Tử. Trong một đêm xuân đầy

trăng, nhà thơ cảm thấy thiên nhiên “giàu sang hơn Thượng Đế”.
Trăng là ngôi vị tối thượng trong thơ Tử. đó không còn là thơ nói về trăng. Đó là
thơ viết thẳng lên trăng. Đó là ngôn từ hóa trăng:
Xin tha thứ những câu thơ tội lỗi
Của bàn tay thi sĩ kẻ lên trăng…
(Đêm xuân cầu nguyện)
Dù thơ Hàn Long Vân không có nhiều trăng nhưng ông cũng hình dung trăng như
là Nim của mọi người, một Chúa Tình. Ở đây, trăng chính là tình yêu:
Xuống đi em, ta sợ
Sao em cứ lượn lờ trên cành cao đó?

Vầng trăng non trên cành liễu cười nhẹ đáp:
“Nào phải em không muốn xuống đâu,
Nhưng em là Nim của mọi người, anh ạ…
(Bài 26)
Cũng có khi, Han Yong-Un hình dung trăng như một người tình nam nhi:
Vầng trăng chiếu sáng, em nhớ anh quá.

Năm trước, em thấy mặt anh như trăng:
Và đêm nay trăng hóa thành mặt anh đấy.
Bởi mặt anh là trăng, mặt em cũng thế…
(Bài 58)
Rất giống tứ thơ của Tử:
Không gian đầy đặc toàn trăng cả:
Tôi cũng trăng mà nàng cũng trăng
(Huyền ảo)
Người trăng ăn vận toàn trăng cả
(Say trăng)
Bỗng đêm nay, trước cửa bóng trăng quỳ,
Sấp mặt xuống uốn mình theo dáng liễu…


Em, hãy nhập hồn em trong bóng nguyệt.
(Hãy nhập hồn em)

×