Tải bản đầy đủ (.pdf) (12 trang)

Những kỉ niệm về thầy N. Nikulin (Tưởng niệm 1 năm ngày mất GS.TS. N.Nikulin pot

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (218.96 KB, 12 trang )

Những kỉ niệm về thầy N. Nikulin
(Tưởng niệm 1 năm ngày mất
GS.TS. N.Nikulin, 31-12-2005 –
2006)






Đầu những năm 70 của thế kỷ trước, học ở Khoa Văn, Trường Đại
học Sư phạm Hà Nội, tôi đã biết đến tên tuổi của N. Nikulin, nhưng gần 20
năm sau, tại Matxcơva, tôi mới được gặp trực tiếp thầy - tác giả của
những công trình nghiên cứu về Nguyễn Du, Hồ Xuân Hương mà trong
các bài tập nghiên cứu, cánh sinh viên chúng tôi thường hay trích dẫn.

Cuộc gặp mặt do Hội Nhà văn Liên Xô tổ chức, vào một buổi chiều
cuối năm 1990 tại nhà số 52 phố Povarnaia, trụ sở Hội Nhà văn Liên Xô,
theo sáng kiến của hai thầy M. Tkachov, N. Nikulin và các bạn Trần Đăng
Khoa, Nguyễn Đình Chiến, Từ Thị Loan, những bạn ở khoá trước chúng
tôi. Tham dự gặp gỡ gồm các nhà văn Liên Xô đã từng cộng tác, gắn bó
với Việt Nam thời chống Mỹ và các học viên của Trường Viết văn Gorki:
Vũ Xuân Hương, Thùy Linh, Phan Thanh Thuỷ, Nguyễn Chiến Thắng, Lại
Thị Thanh Mai.

Cho đến hôm nay, đã 16 năm rồi, tôi không còn nhớ được chính xác
tên tuổi tất cả những nhà văn Liên Xô trong buổi gặp mặt hôm đó, nhưng
hình ảnh hai thầy M. Tkachov và N. Nikulin vẫn còn đọng lại trong tôi thật
đậm nét. Lúc khai mạc long trọng hai ông phát biểu bằng tiếng Nga, lúc
vào tiệc rượu vui vẻ, bốc lên thì trò chuyện thoải mái bằng tiếng Việt.
Chúng tôi gọi hai ông bằng “anh”, hẹn “hai anh”sẽ còn gặp lại. Lúc ấy


“hai anh” mới xấp xỉ tuổi 60, trông còn nhanh nhẹn và rất “phong độ”.

Tưởng hẹn vui thế thôi, không ngờ, năm sau thầy trò chúng tôi lại
gặp nhau trong các giờ lên lớp. Thầy N. Nikulin công tác ở Viện Văn học
thế giới mang tên Gorki, trực thuộc Viện hàn lâm khoa học Liên Xô nhưng
thường xuyên được mời sang giảng dạy tại Trường Viết văn Gorki - nơi
chúng tôi theo học.

Trước đó vài năm, các nhà văn Việt Nam theo học chính quy ở
trường Gorki mỗi khoá chỉ có một người. Năm 1991, lần đầu tiên, có nhóm
Việt Nam đông tới 6 người, nên nhà trường đặt ra “chương trình phụ” cho
chúng tôi: Ngoài những giờ lên lớp chung với các bạn Liên Xô và các
nước khác, chúng tôi còn nghe giảng một số tiết về văn học Việt Nam do
thầy N. Nikulin phụ trách. Còn thầy M. Tkachov giúp chúng tôi các giờ
xemina dịch thuật văn học. Nguyễn Chiến Thắng, người trẻ tuổi nhất trong
nhóm là chúa hay ngủ gật. Lớp đông mấy chục người, lại ngồi cuối dãy,
các thầy không biết. Giờ của thầy N. Nikulin chỉ có 6 người thì giấu làm
sao được. Thỉnh thoảng chúng tôi lại bấm Thắng một cái, nhưng hắn vẫn
không cưỡng lại được tật ngủ gật. Thầy biết nhưng không nói gì.

Một lần, thầy đọc cho chúng tôi nghe Bài ca chúc Tết thanh niên của
Phan Bội Châu:

Dậy! Dậy! Dậy!
Bên án một tiếng gà vừa gáy
Chim trên cây liền ngỏ ý chào mừng

Bình thường, giọng thầy lúc nào cũng đều đều, nhỏ nhẹ. Khi đọc câu
thơ Phan Bội Châu bằng tiếng Nga Vstavai! Vstavai! Vstavai!thầy nhấn
mạnh ngữ điệu, đọc rất to, làm Thắng giật mình tỉnh dậy, ngơ ngác. Cả lớp

cười ồ. Thầy cũng cười thoải mái.

Khoá học của chúng tôi, ngoài việc lên lớp, thầy còn hướng dẫn một
số người viết luận văn tốt nghiệp và tham gia phản biện. Liên Xô tan vỡ,
Hội Nhà văn Liên Xô cũng giải tán, lớp chúng tôi là khoá cuối cùng có các
nhà văn Việt Nam theo học, thầy cũng thôi sang giảng ở trường. Nhưng từ
đó đến nay, quan hệ giữa chúng tôi và thầy vẫn gắn bó. Mỗi khi tổ chức
những đêm thơ, hội thảo , Hội Văn học nghệ thuật Việt Nam tại Liên bang
Nga bao giờ cũng mời thầy tham dự, hoặc nhờ thầy cố vấn. Được gặp gỡ
các bạn Việt Nam, được nghe và nói tiếng Việt, là niềm vui của thầy.

Cuối tháng 9, đầu tháng 10 năm 2000, thầy và tôi cùng về Việt Nam
dự hội nghị Việt Nam trong thế kỷ XX. Các nhà Việt Nam học của 38 nước
trên thế giới có mặt trong hội nghị này để đánh giá tiến trình lịch sử - văn
hoá - văn học Việt Nam trong 100 năm. Đoàn các nhà Việt Nam học của
Nga có 6 người: thầy N. Nikulin, anh A. Xokolov (Viện Đông phương học),
anh V. Antonshenko (Trung tâm Việt Nam học thuộc Viện các nước Á-Phi
của MGU). Thầy N. Nikulin ngồi trên ghế chủ tịch đoàn, đồng thời phụ
trách một tổ thảo luận. Ngôn ngữ chính của Hội nghị là các thứ tiếng: Anh,
Pháp, Nga và Việt. Khi đọc tham luận và tổng kết thảo luận của nhóm mình
phụ trách, thầy đọc bằng tiếng Việt. Mặc dù giỏi tiếng Việt, đã dịch nhiều
tác phẩm văn học Việt Nam ra tiếng Nga, nhưng thầy đọc tiếng Việt chậm
và khó nghe. Cô Đặng Thanh Lê cười và bảo tôi: “Ông ấy cứ đọc bằng
tiếng Nga, mình đỡ sốt ruột”.

Cô Đặng Thanh Lê là cô giáo của tôi hồi đại học. Cô và thầy Nguyễn
Văn Hoàn, nguyên Viện phó Viện Văn học, chồng cô, đều là những chuyên
gia lớn về Truyện Kiều. Thầy N. Nikulin khởi đầu sự nghiệp văn chương
của mình cũng bằng Truyện Kiều, lại gắn bó suốt đời với văn học Việt
Nam, vì thế họ là những người bạn thân thiết mấy chục năm rồi. Tranh thủ

những giờ giải lao, giờ chờ tiệc chiêu đãi, họ trò chuyện thăm hỏi nhau
thân mật. Tôi mang theo máy ảnh, ghi lại được nhiều hình ảnh đẹp, tặng
gia đình cô Đặng Thanh Lê và thầy N. Nikulin. Đó là hình ảnh của thầy lần
cuối cùng đến Việt Nam mà tôi ghi được.

Tháng 10 năm 2005, PGS.TS. Phạm Vĩnh Cư, nguyên Phó Hiệu
trưởng Trường viết văn Nguyễn Du, cùng Tiến sĩ ngữ văn Trịnh Bá Đĩnh ở
Viện Văn học Việt Nam sang công tác theo lời mời của Viện Văn học thế
giới mang tên Gorki. Ngày 26 tháng 10, thầy N. Nikulin cùng ông A.
Kudelin, Viện trưởng và các giáo sư trong Viện tổ chức gặp mặt đoàn. Tôi
là “thổ công”, đồng thời là học trò của cả hai phía nên được đi theo tham
dự. Thầy Phạm Vĩnh Cư chuyển lời của Viện trưởng Viện Văn học Việt
Nam mời thầy N. Nikulin sang Hà Nội công tác. Ông cám ơn, nhưng rất lấy
làm tiếc vì cô Iveta đã loà, không thể để cô ở nhà mà đi đâu xa được. Khi
Trịnh Bá Đĩnh đề nghị thầy hướng dẫn cho một cán bộ của Viện Văn học
Việt Nam làm luận án Tiến sĩ, thầy vui vẻ nhận lời.

Hôm ấy, không thấy thầy có biểu hiện gì của tuổi già, ốm đau bệnh
tật, ai ngờ đó là buổi gặp gỡ cuối cùng của thầy với chúng tôi. Hai tháng
sau, trước Tết dương lịch mấy hôm, tôi gọi điện chúc Tết thầy sớm hơn
mọi năm để đi thành phố xa. Nhiều lần chuông reo mà không ai nhấc máy.
Hai ông bà ở riêng, không ở cùng con cái. Tôi nghĩ chắc ông bà đi nghỉ ở
đâu đó. Ngày 27/12, trước giờ ra tàu, tôi gọi thêm lần nữa, nghe thấy giọng
thầy yếu ớt, thốt lên được hai tiếng: “Tôi ốm”, rồi tắt máy, không có cách
nào liên hệ lại được nữa. Tôi linh cảm có điều gì không ổn với thầy. Quả
vậy, sáng ngày 31 tháng 12 năm 2005, thầy lặng lẽ ra đi ở tuổi 75, không
kịp đón giao thừa. Và, hồi ký Chiếc va li của thầy đăng trên tạp chí Đoàn
kết số Tết dương lịch năm 2006, kèm theo chân dung thầy với nụ cười
tươi, chúng tôi không còn dịp được mang đến biếu thầy.


Lại nhớ, năm 2001, N. Nikulin tròn tuổi 70. Trước đó hai, ba tuần, tôi
đinh ninh sẽ chào mừng sự kiện đặc biệt này một cách chu đáo. Nào là
thay mặt Hội Văn học nghệ thuật Việt Nam tại Liên bang Nga sẽ gửi bưu
thiếp chúc mừng qua bưu điện, rồi với tư cách học trò cũ sẽ đến tận nhà
gửi một món quà lưu niệm. Thế nhưng, tính tôi rất đoảng. Chẳng bận rộn
việc gì cũng quên khuấy đi mất. Một buổi tối, đã hơn 11 giờ bỗng chợt
nhớ tới thầy. Cũng may, hôm đó lại đúng ngày sinh của thầy (3/10/1931).
Muộn còn hơn không. Tôi gọi điện xin lỗi vì quấy rầy thầy vào giờ này, và
chúc mừng thầy. Thầy cười, bảo: “Không sao! Tôi rất mừng là anh đã gọi
điện. Hôm nào rỗi đến chơi cũng được”.

Người Nga thường ít khi mời khách đến nhà. Nhưng tôi có mặt ở nhà
thầy nhiều lần, thường là vì công việc. Căn hộ cũ số 505 của thầy ở phố
Phestivalnaia, thuộc khu nhà xây từ thời Xô-viết, 5 tầng, không có thang
máy, mà thầy lại ở tận tầng trên cùng. Mấy năm gần đây, khu nhà cũ được
phá đi để xây dựng lại, thầy được phân đến nhà số 6, mới xây dựng trên
phố Liapidevxkaia. Tiêu chuẩn nhà rộng hơn, có thang máy đỡ phải đi bộ,
nhưng cô Iveta vợ thầy lại cằn nhằn: “Tôi thích căn hộ cũ hơn. Căn hộ
mới này họ xây dựng dở quá. Hành lang thì rộng đá bóng được, còn các
phòng ở và làm việc thì lại quá bé”. Tôi đồng tình với cô. Quả thực, kiến
trúc nội thất của ngôi nhà cũ đẹp và hợp lý hơn.

Hội Văn học nghệ thuật Việt Nam tại Nga của chúng tôi có Tạp
chí Người bạn đường nhờ thầy đóng góp bài. Mặc dù giỏi tiếng Việt,
nhưng bao giờ thầy cũng gửi bài viết của mình bằng tiếng Nga để chúng
tôi dịch. Dù có giỏi ngoại ngữ đến đâu, các tác giả viết bài bao giờ cũng
bằng ngôn ngữ mẹ đẻ mới diễn đạt hết được ý tưởng của mình. Chỉ đôi
lúc có cảm hứng nào đó, mới viết trực tiếp bằng ngoại ngữ mà mình thông
thạo. Lúc chưa có máy vi tính, thầy thường giao cho tôi bản thảo viết tay,
khó đọc hơn bản đánh máy, nên nhiều chữ không rõ, phải luận mãi mới

ra. Trong lúc dịch, có từ nào bí, tôi lại gọi điện hỏi thầy nên dịch ra tiếng
Việt thế nào cho đúng. Dịch xong, tôi mang bản tiếng Việt đến cho thầy
duyệt. Tạp chí của chúng tôi xuất bản được là nhờ tài trợ của một vài nhà
doanh nghiệp hảo tâm ở các trung tâm thương mại. Lúc tạp chí in ra, đem
đến cho họ biếu bà con đang kinh doanh, chứ không bán. Vì vậy toà soạn
chưa bao giờ có tiền trả nhuận bút cho tác giả. Riêng trường hợp thầy,
chúng tôi biết lương hưu có hạn, giá cả đắt đỏ, nên khi mang tạp chí đến
biếu thầy, có kèm một khoản “nhuận bút” khiêm tốn, khoảng 50 USD.
Thầy bảo, với các bạn, gửi bài không nhuận bút vẫn vui.

Nhờ đọc và trực tiếp dịch những tư liệu của thầy nghiên cứu về Việt
Nam, tôi mới được biết rất nhiều kiến thức mới bổ ích mà hồi trong nước
mình chưa được biết. Xin ví dụ một trường hợp: Người Việt Nam đầu tiên
đặt chân lên châu Âu (Bồ Đào Nha) là linh mục Philip Bỉnh (1759-1832), vì
mâu thuẫn với một số giám mục bề trên người phương Tây, chạy trốn từ
Việt Nam qua Ma Cao, rồi từ Ma Cao sang Bồ Đào Nha (1796) nhờ sự che
chở của nhà vua Bồ Đào Nha - người đỡ đầu cho Thiên chúa giáo phương
Đông. Điều lý thú khi chúng tôi đọc các công trình của ông nghiên cứu về
Việt Nam, thường có những phát hiện, cách nhìn độc đáo mà người trong
nước không có được. N. Nikulin nhận xét: Lâu nay ý kiến phổ biến cho
rằng “Alekxandr de Rode, người Pháp, là cha đỡ đầu của Thiên chúa giáo
Việt Nam”. Nhưng thực tế, ông là người của Giáo hoàng La Mã cử đến Việt
Nam từ Lixbon - Bồ Đào Nha chứ không phải đến từ Pháp. Vào năm 1493,
Giáo hoàng La Mã phân chia ranh giới, trả phương Tây cho Tây Ban Nha
và phương Đông về Bồ Đào Nha. Từ năm 1508, theo quy định của Giáo
hoàng, nhà vua Bồ Đào Nha là người bảo trợ chính thức cho Thiên chúa
giáo các nước phương Đông. Kết quả thực tế là Bồ Đào Nha kéo dài đến
cả Braxin. Và ông (Alekxandr de Rode) cho xuất bản cuốn Từ điển Việt -
Bồ chứ không phải Từ điển Việt - Pháp, trong từ điển này có bản cảo của
Philip Bỉnh. Theo N. Nikulin, Philip Bỉnh là người Việt Nam đầu tiên dịch

sách phương Tây ra tiếng Việt từ thế kỷ XVIII. Đó là cuốn Viễn du của nhà
văn Pherma Mendesa Phity. Lâu nay người ta vẫn cho rằng văn học
phương Tây được dịch ra tiếng Việt khoảng đầu thế kỷ XX, đặc biệt lấy
những bản dịch của Nguyễn Văn Vĩnh dịch tác phẩm của La Phongten
(Pháp) làm mốc.

Philip Bỉnh cũng có thể được coi là nhà văn Việt Nam đầu tiên viết
bằng quốc ngữ với cuốn sách có tên gọi rất nôm na Sổ sách sang chép
các việc, viết năm 1822. Xin xem Philippe Bỉnh: Sách sổ sang chép các
việc (Truyện Đàng Trao). Lisbon, 1822. Tái bản, Thanh Lãng giới thiệu.
Viện Đại học Đà Lạt Xb, 1968 - BB chú). N. Nikulin nhận xét: “Tác phẩm
của ông nặng về những thông tin thường nhật. Nhưng cũng không vì thế
mà mất đi ý nghĩa văn chương, những nét lãng mạn trữ tình trong nội
dung của nó”. Xưa nay, ta thường thấy các cuốn sách du ký của các nhà
thám hiểm phương Tây viết về phương Đông. Có lẽ Philip Bỉnh là người
đầu tiên của phương Đông viết du ký phương Tây. Những tư liệu mới về
cuộc đời và sáng tác của Philip Bỉnh, được N. Nikulin phát hiện lại và mô
tả kỹ lưỡng trong dịp sang Lixbon năm 1998 theo lời mời của tổ chức
quốc tế Fundaỗao Oriente (Quỹ phương Đông). Ông lục tìm trong thư viện
và may mắn tìm ra những tư liệu về Philip Bỉnh và cuốn Sổ sách sang
chép các việc, một viên ngọc quý mà các nhà nghiên cứu Việt Nam chưa
biết đến nhiều. Ngay các học giả Pháp đến tận nửa đầu thế kỷ XX cũng
không biết gì về Philip Bỉnh và di cảo viết tay của ông. Vì thế, căn cứ vào
tư liệu và khảo cứu lần này của N. Nikulin, tôi nghĩ những nhận định xưa
nay cho rằng Trương Vĩnh Ký, Huỳnh Tịnh Của mở đầu cho văn xuôi
quốc ngữ Việt Nam cần phải xem xét lại. Với những tư liệu về Philip Bỉnh,
bằng nhãn quan một nhà khoa học, ông phát hiện và triển khai thành
nhiều bình diện nghiên cứu sâu sắc, khiến chúng ta phải khâm phục. Chỉ
riêng việc Philip Bỉnh ghi chép chuyện uống trà của người Bồ Đào Nha, N.
Nikulin đã phát triển thành vấn đề lý thú: “Trà, đối thoại của văn hoá”. Loạt

bài của ông về Philip Bỉnh, chúng tôi đã cho dịch và in trên Tạp chí Người
bạn đường mấy số liền.

Ngay sau khi tốt nghiệp Đại học phương Đông năm 1954, N. Nikulin
sang Việt Nam thực tập (1954-1965), được gặp Bác Hồ và phiên dịch cho
các cuộc tiếp xúc của Người với Đại sứ Liên Xô, cũng như các đoàn
chuyên gia kinh tế sang giúp Việt Nam. Ông cũng được Thủ tướng Phạm
Văn Đồng quý mến và có quan hệ mật thiết. Những nhà nghiên cứu khoa
học xã hội hàng đầu, những nhà văn Việt Nam như Đặng Thai Mai, Hoài
Thanh, Đào Duy Anh, Xuân Diệu, Nguyễn Văn Bổng là những người bạn
thân thiết của ông, tạo mọi điều kiện thuận lợi cho ông trong quá trình
dịch thuật và nghiên cứu. Năm 1961, N. Nikulin bảo vệ luận án Phó tiến sĩ
với đề tài Những sáng tác của Nguyễn Du giai đoạn 1765-1820. Cả đời ông
gắn bó với việc dịch và nghiên cứu văn học Việt Nam. Nhờ những công
trình ấy, ông được công nhận là Giáo sư Tiến sĩ, hội viên Hội Nhà văn Liên
Xô, nhà Việt Nam học tầm cỡ thế giới, giảng dạy tại các trường MGU, Viện
Đông phương học, làm Trưởng ban Văn học Á Phi của Viện Văn học thế
giới mang tên Gorki, nhiều lần tham dự các hội nghị khoa học tại Vaima,
Budapest, Insbrus, Berlin, Brauton, Lisbon Mấy chục đầu sách dịch văn
học và hơn 300 công trình nghiên cứu về văn hoá, văn học, ngôn ngữ Việt
Nam của ông đã được công bố khiến ta phải ngạc nhiên về lòng say mê và
sức làm việc bền bỉ của ông. Đã có lần tôi định đề nghị ngồi cùng ông
thống kê đầy đủ tên những công trình đã xuất bản, nhưng chưa kịp làm thì
ông đã mất. Chỉ xin điểm một số cuốn mà tôi biết trong những lần đến nhà
ông: Truyện cổ tích Việt Nam, Truyện Trạng Quỳnh, Truyện miền núi Việt
Nam, Đồng tiền ma ám (Nguyễn Công Hoan), Vỡ bờ (Nguyễn Đình
Thi), Văn học Việt Nam sơ thảo, Văn học Việt Nam từ trung đại đến thời
mới, thế kỷ X - XIX, rồi những công trình nghiên cứu về Nguyễn Trãi,
Nguyễn Du, Hồ Xuân Hương, Hồ Chí Minh, Ngô Tất Tố Tại Việt Nam cũng
vừa kịp thời xuất hiện hai tập sách nghiên cứu chuyên sâu của ông: Văn

học Việt Nam và giao lưu quốc tế (Nguyễn Hữu Sơn tuyển chọn và giới
thiệu. Nxb. Giáo dục, H, 2000, 752 trang) và Dòng sông văn hoá Việt
Nam (Hồ Sĩ Vịnh - Nguyễn Hữu Sơn tuyển chọn và giới thiệu. Nxb. Văn
hoá - Thông tin, H, 2006, 534 trang). Ông là một trong những người có
công lớn trong quá trình xây dựng bộ tuyển Văn học đương đại Việt
Nam 15 tập bằng tiếng Nga, đồng thời đào tạo nhiều Phó tiến sĩ, Tiến sĩ
cho ngành nghiên cứu văn học Việt Nam. Hôm vừa rồi Masa (cô con gái
duy nhất của thầy và bà I. Glebova) đem đến tặng tôi cuốn Truyện miền
núi Việt Nam (in năm 1970) - kỷ vật của người cha, khiến tôi lại cảm thấy
như thầy đang hiện hữu bên mình.

Viết về N. Nikulin, không thể không nhắc đến bà Iveta Ivanovna
Glebova, vợ thầy. Người Việt Nam, ai học tiếng Nga chắc đều biết tên bà.
Bà là một trong những sinh viên Nga thuộc thế hệ đầu tiên nghiên cứu
tiếng Việt, dịch văn học Việt Nam. Cùng với I. Ivanov và một số tác giả
khác, bà tham gia biên soạn Từ điển Việt Nga khoảng 36 nghìn từ, xuất
bản năm 1961. Đến năm 1992, bà lại cùng Anatoli Xokolov, cho ra mắt
cuốn Từ điển Việt Nga mới, khoảng 60 nghìn từ, đầy đủ và phong phú
hơn, cẩm nang cho những người học tiếng Nga. I. Glebova sinh năm 1929
trong một gia đình viên chức nhà nước, hơn N. Nikulin hai tuổi. Tốt nghiệp
Đại học phương Đông năm 1952, bà bảo vệ luận án Phó tiến sĩ về Phạm
trù tính từ trong tiếng Việt hiện đại năm 1970, được phong Phó giáo sư
năm 1972. Nhiều năm liền, bà dạy ở Trường Đại học quan hệ quốc tế
(MGIMO). Hôm vừa rồi, ông Grigori Lokshin, nguyên thư ký Uỷ ban Liên
Xô ủng hộ Việt Nam thời chống Mỹ, thư ký Quỹ hoà bình thế giới của Nga,
ngồi trò chuyện với chúng tôi, đã kể lại, bà Iveta là cô giáo của ông.
Những năm 1956-1963, 1974-1975 bà sang thực tập và giảng dạy ở Trường
Đại học Tổng hợp Hà Nội. Cho đến nay bà đã có hơn 50 công trình nghiên
cứu về ngôn ngữ, văn hoá Việt Nam, đồng thời cùng ông tham gia dịch
một số tác phẩm văn học Việt Nam, góp phần xây dựng 15 tập Hợp tuyển

văn học Việt Nam bằng tiếng Nga. Bà dịch tập Truyện cổ Việt Nam, rồi Con
trâu của Nguyễn Văn Bổng (1956), Hương cỏ mật của Đỗ Chu và các tác
phẩm của Bùi Hiển, Vũ Thị Thường, Kim Lân, Hồ Phương, Đào Hồng
Cẩm

Lần nào đến thăm, tôi cũng được ông bà chiêu đãi nhẹ. Hai thầy trò,
mỗi người làm một ly conhac hoặc vodka, sau đó là bánh mỳ với kolbasa,
kèm theo một món đặc biệt do bà Iveta làm. Đó là món xalat cá mực trộn
maionhez. Lần đầu tiên được ăn xalat mực, tôi khá là ngạc nhiên vì ngon
miệng, mà lại không hề có vị tanh của cá. Biết tôi thích, lần nào tôi đến cô
Ivetta cũng chuẩn bị sẵn món này. Ở Nga 16 năm rồi, đến nhà nhiều bạn
Nga chơi, nhưng tôi chỉ được chiêu đãi món này ở nhà bà.

Hôm thầy N. Nikulin mất, tôi ở xa Matxcơva nên không được tiễn
thầy về nơi an nghỉ cuối cùng. Lúc về Mat, tôi gọi điện muốn tới nhà chia
buồn với cô Iveta. Đau buồn vì ông mới mất, lại đang bệnh mù loà, bà
không muốn tiếp bất cứ ai. Lúc có tiền nhuận bút bài Chiếc va li của ông
đăng trên Tạp chí Đoàn kết, tôi gọi cho bà, nhưng bà cũng bảo không thể
tiếp, cứ gửi qua Masa là được. Masa là cầu nối giữa bà với chúng tôi.

Gần đây bà không đi lại được. Nhà văn Hồ Sĩ Vịnh, bạn cũ của ông
bà từ Hà Nội sang công tác, có mang quà đến tặng. Bà ở nhà một mình.
Hồ Sĩ Vịnh đứng ở cửa bấm chuông mà bà không mở, chỉ nói vọng ra. Một
là già quá rồi, bao nhiêu năm không gặp, không nhận ra giọng người quen
cũ, lại mù loà không nhìn thấy gì, sợ bị lừa. Hai là bà cũng không dậy
được ra mở cửa. Ông đành ngậm ngùi trở về nhờ tôi tìm cách gửi quà cho
bà vào lúc khác. Masa kể, mẹ bây giờ không những bị loà, mà còn bị đau
đầu thường xuyên. Mỗi lần đau là bà la hét quậy phá. Cô bảo: Như vậy là
bố sướng hơn mẹ. Bố ốm có mấy hôm rồi mất, không phải chịu cảnh đau
đớn, nằm liệt giường lâu ngày như mẹ.


Masa ở xa mẹ, mỗi tuần chạy đến thăm vài lần. Kachia (con gái riêng
của bà Iveta) ở gần, có điều kiện hơn. Cậu con trai của Kachia, sau khi
ông mất, đến ở với bà ngoại. Ban ngày cậu cũng phải đi làm, tối mới về.
Mà con trai làm sao chăm người ốm chu đáo bằng phụ nữ? Khi ông còn
sống, mắt bà đã loà, thỉnh thoảng ông dắt bà xuống đường đi dạo cho
thoáng. Câu tục ngữ: “Con nuôi cha không bằng bà nuôi ông” không chỉ
đúng cho người Việt. Tiếc rằng, giờ không còn ông để chăm sóc bà hàng
ngày.

Sắp đến lễ kỷ niệm một năm ngày mất của N. Nikulin, tôi ngồi viết
những dòng này để tưởng nhớ và tỏ lòng tri ân đối với thầy, không phải
của riêng tôi, mà của tất cả bạn bè trường viết văn Gorki thủa ấy, của
nhiều thế hệ học trò khác đã trưởng thành qua bàn tay dìu dắt của thầy.
Nhờ những công trình dịch thuật và nghiên cứu của thầy mà độc giả Nga
và Liên Xô biết đến tinh hoa văn hoá của dân tộc Việt Nam. Thật đúng khi
nói rằng cuộc đời N. Nikulin đồng hành cùng văn học Việt Nam. Đánh giá
cao những cống hiến của N. Nikulin, nhà nước Việt Nam đã tặng thầy
Huân chương Hữu nghị.

×