Tải bản đầy đủ (.pdf) (10 trang)

LỊCH SỬ THỐNG NHẤT ĐẤT NƯỚC HÀN QUỐC_2 potx

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (199.11 KB, 10 trang )

LỊCH SỬ THỐNG NHẤT ĐẤT NƯỚC
HÀN QUỐC

Từ đầu thế kỷ 17, một phong trào chủ trương Silhak, có nghĩa học thuật
thực hành, đã phát triển mạnh trong các quan chức học giả có tư tưởng
tự do như một phương tiện để xây dựng một quốc gia hiện đại.

Các học giả này kiên quyết kiến nghị việc cải thiện nông nghiệp và công
nghiệp, đồng thời thực hiện cải cách triệt để việc phân chia đất đai.
Đương nhiên những nhà quý tộc của một chính phủ bảo thủ không sẵn
sàng ủng hộ một sự thay đổi mạnh mẽ như vậy.

Trong nửa sau của thời kỳ Joseon, người ta thấy chính quyền chính phủ
và tầng lớp thượng lưu bắt đầu có những biểu hiện của tư tưởng bè
phái. Để chỉnh đốn tình hình chính trị không mong muốn này, vua
Yeongjo (trị vì 1724-1776) cuối cùng đã đề ra một chính sách không
thiên vị. Nhờ thế nhà vua đã củng cố được quyền lực của vương triều
và sự ổn định chính trị.

Vua Jeongjo (trị vì 1776-1800) đã duy trì chính sách không thiên vị và
lập nên một thư viện của triều đình để gìn giữ những tài liệu và những
biên bản của vương triều. Ông cũng khởi xướng những cuộc cải cách về
chính trị và văn hóa khác. Giai đoạn này đã chứng kiến sự phát triển rực
rỡ của Silhak. Một số học giả có tên tuổi đã viết ra những công trình
tiến bộ đề nghị cải cách nông nghiệp và công nghiệp, nhưng chỉ một số
ít những ý tưởng đó được triều đình chấp thuận.


Sự chiếm đóng của thực dân Nhật và phong trào độc lập
của Hàn Quốc



Hàn Quốc trở thành một “Quốc gia ẩn dật” vào thế kỷ 19,
kiên quyết phản đối những đòi hỏi của phương Tây về quan
hệ ngoại giao và thương mại. Cùng với thời gian, một số
nước châu Á và châu Âu với tham vọng đế quốc đã đua
tranh để giành ảnh hưởng đối với bán đảo Triều Tiên. Nhật
Bản, sau khi thắng Trung Quốc và Nga trong chiến tranh, đã
thôn tính Hàn Quốc và thiết lập sự cai trị thực dân tại đây từ
năm 1910.

Chế độ cai trị thực dân của Nhật Bản đã khơi dậy tinh thần
yêu nước của người Hàn Quốc. Các nhà trí thức Hàn Quốc đã
căm phẫn trước chính sách đồng hóa ngang nhiên của Nhật
Bản mà thậm chí chính sách này còn cấm cả việc giảng dạy
bằng tiếng Hàn trong các trường học. Ngày 1-3-1919, người
dân Hàn Quốc đã tổ chức những cuộc phản đối trên phạm vi
cả nước, trong đó hàng nghìn người đã hy sinh.



Mặc dù thất bại, Phong trào Độc lập mồng 1 tháng 3 đã tạo
nên một mối liên kết vững vàng giữa bản sắc dân tộc và tinh
thần yêu nước của người dân Hàn Quốc. Phong trào này đã
dẫn tới việc thành lập một chính phủ lâm thời tại Thượng
Hải, Trung Quốc và cuộc đấu tranh vũ trang có tổ chức
chống lại thực dân Nhật tại Mãn Châu Lý. Vào ngày mồng 1
tháng Ba hàng năm, người Hàn Quốc vẫn kỷ niệm Phong
trào Độc lập này và đây được coi là ngày lễ quốc gia.

Trong suốt thời kỳ thực dân, Nhật Bản đã không ngừng bóc

lột Hàn Quốc về kinh tế. Cuộc sống của người Hàn Quốc trở
nên khốn khổ dưới ách thống trị của thực dân Nhật cho tới
khi Nhật Bản bị đánh bại trong cuộc chiến tranh thế giới lần
thứ II vào năm 1945.


Thành lập nước Đại Hàn Dân Quốc



Người Hàn Quốc vui mừng khi Nhật bị đánh bại trong Chiến
tranh Thế giới lần thứ II. Tuy nhiên, niềm vui của họ chỉ hết
sức ngắn ngủi. Tự do không đem lại ngay cho người Hàn
Quốc một nền độc lập mà họ đã chiến đấu hết sức ác liệt để
giành lấy.

Thay vào đó, nó đã để lại một đất nước bị chia cắt bởi sự
khác biệt về tư tưởng do cuộc chiến tranh lạnh. Những nỗ
lực của người Hàn Quốc nhằm xây dựng nên một chính phủ
độc lập đã thất bại do lực lượng quân đội Mỹ chiếm đóng
nửa phía nam bán đảo và quân đội Xô Viết kiểm soát phần
phía Bắc.

Tháng 11-1947, Đại hội đồng Liên Hiệp Quốc (LHQ) thông
qua một nghị quyết kêu gọi tổng tuyển cử tại Hàn Quốc dưới
sự giám sát của một Ủy ban LHQ.





Tuy nhiên, Liên Xô đã từ chối thi hành nghị quyết này và
ngăn Ủy ban LHQ tiến vào nửa phía bắc bán đảo. Sau đó, đại
hội đồng LHQ đã thông qua một nghị quyết khác kêu gọi bầu
cử tại các địa phương mà Ủy ban LHQ có thể đến được.
Những cuộc bầu cử đầu tiên ở Hàn Quốc được tiến hành vào
ngày 10-05-1948 tại những vùng ở phía nam vĩ tuyến 38. Vĩ
tuyến này đã trở thành đường chia cắt bán đảo Triều Tiên
thành hai miền Bắc, Nam.

Syngman Rhee (Lý Thừa Vãn) được bầu làm Tổng thống đầu
tiên của Đại Hàn Dân Quốc vào năm 1948. Đồng thời, ở phía
bắc vĩ tuyến 38, CHDCND Triều Tiên được thành lập dưới sự
lãnh đạo của Kim Il-sung (Kim Nhật Thành).

Ngày 25-06-1950, miền Bắc tiến hành một cuộc xâm lược
quy mô lớn vào miền Nam dẫn đến cuộc chiến tranh kéo dài
ba năm với sự tham gia của Mỹ, Trung Quốc và một số lực
lượng quân sự nước ngoài khác. Toàn bộ bán đảo bị tàn phá
do những cuộc xung đột. Cuối cùng, một hiệp định ngừng
bắn đã được kí kết tháng 7-1953.

Cuộc chiến tranh đã làm gần 3 triệu người chết và bị
thương, hàng triệu người khác mất nhà cửa hoặc bị ly tán
gia đình. Sự rối loạn nghiêm trọng về xã hội vẫn tiếp diễn
dưới chính quyền Tổng thống Syngman Rhee.

Nền dân chủ của Hàn Quốc chưa chín muồi vào thời điểm
bấy giờ, và đất nước đã phải trải qua những khó khăn to lớn
về chính trị và kinh tế. Cuộc nổi dậy do sinh viên cầm đầu
tháng 4-1960 buộc Tổng thống Rhee phải từ chức. Chang

Myon thuộc đảng dân chủ lập nên một chính phủ vào tháng
8-1960 và một nền cộng hòa thứ hai được thành lập.

Tuy nhiên, một cuộc đảo chính do Đại tướngPark Chung-hee
(Pắc Chung Hy) cầm đầu ngày 16-05-1961 đã lật đổ chính
phủ mới. Hội đồng Tái thiết Quốc gia Tối cao do TướngPark
đứng đầu đã tiếp quản các chức năng lập pháp, hành pháp
và tư pháp của Chính phủ.

Park trở thành Tổng thống trong cuộc bầu cử năm 1963.
Chính quyền của Tổng thống Park theo đuổi công cuộc công
nghiệp hóa nhanh chóng và đạt được sự tăng trưởng kinh tế
cao trong những thập kỷ 60 và 70 của thế kỷ trước, thường
được gọi là "Kỳ tích trên sông Hàn", nhưng sự cai trị của ông
cũng kéo theo hạn chế nghiêm ngặt những quyền chính trị
và tự do của nhân dân.

Vụ ám sát TổngthốngPark vào tháng 10-1979 đã dẫn đến
thời kỳ quá độ dưới ách quân luật. Choi Kyu-hah, được
phong làm Tổng thống lâm thời, đã từ chức tháng 8-1980, và
Chun Doo-hwan, người cầm đầu một nhóm sĩ quan đầy thế
lực, đã được Hội nghị Quốc gia về Thống nhất-một tập thể
cử tri - bầu làm Tổng thống.
Các phong trào thân dân chủ lên cao trong suốt thập niên
1980 và chế độ bầu cử Tổng thống bằng đầu phiếu phổ
thông trực tiếp đã được khôi phục trong Hiến pháp được
sửa đổi năm 1987.

Roh Tae-woo, nguyên là một tướng quân đội, đã được bầu
làm Tổng thống theo Hiến pháp mới, song những tiến bộ về

dân chủ đạt được trong suốt thời kỳ cầm quyền của ông đã
chuẩn bị cho cuộc bầu cử tổng thống dân sự lần đầu tiên
trong vòng 32 năm.

Kim Young-sam, một nhà hoạt động thân dân chủ lâu năm,
do đảng cầm quyền đề cử đã được bầu làm Tổng thống năm
1992.

Trong cuộc bầu cử tổng thống năm 1997, lãnh tụ Kim Dae-
jung của phe đối lập chiếm đa số - đảng Quốc hội vì một Nền
Chính trị Mới (NCNP) - đã đắc cử. Chính quyền của ông, với
tên gọi "Chính quyền của nhân dân" đã được thành lập
thông qua sự chuyển giao quyền lực một cách hòa bình lần
đầu tiên trong lịch sử Hàn Quốc từ đảng cầm quyền sang
đảng đối lập.

Chính quyền của Tổng thống Roh Moo-hyun, hay "Chính phủ
có sự tham dự của Nhân dân", ra mắt ngày 25-02-2003.
Chính quyền của Tổng thống Roh, chính quyền thứ 16 trong
lịch sử nước cộng hòa, đã đề ra ba mục tiêu trước mắt là
"Dân chủ với nhân dân", "Xã hội phát triển cân bằng", và "Kỷ
nguyên hòa bình và thịnh vượng ở Đông Bắc Á".

Chính quyền Roh Moo-hyun sinh ra từ sức mạnh của nhân
dân. Các cuộc quyên góp tự nguyện và chiến dịch vận động
bầu cử do những người dân vận động đã đem lại chiến
thắng cho Tổng thống Roh Moo-hyun trong cuộc bầu cử
tổng thống.

Chính quyền Roh được xây dựng trên nền tảng sức mạnh

của dân chúng tham gia. Vì vậy, sự tham gia của quần chúng
sẽ có một vai trò then chốt trong hoạt động tương lai của
chính phủ, như nó đã từng có vai trò quyết định khi mới ra
đời.







×