Tải bản đầy đủ (.pdf) (11 trang)

GIẢI PHÓNG DÂN TỘC NĐÔNÊXIA CUỐI tkỈ XIX ĐẦU TK XX pdf

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (133.74 KB, 11 trang )

GIẢI PHÓNG DÂN TỘC NĐÔNÊXIA CUỐI
THẾ KỈ XIX ĐẦU THẾ KỈ XX
Đặt vấn đề:
Trải qua gần 3 thế kỉ xâm chiếm đất đai (tính từ 1596), haowcj bằng vũ
lực hay “thương lượng”, với sức ép quân sự, chính trị và kinh tế thực
dân Hà Lan đã hoàn thành việc thiết lập chế độ thuộc địa của mình ở
Inđônêxia. Sự thống trị và đàn áp dã man cũng như chính sách bọc lột
và khai thác toàn bộ của người Hà Lan suốt từ thời Công ty Đông Ấn tới
đầu thế kỉ XX đã làm cho đại đa số nhân dân Inđônêxia bất bình ngày
càng gay gắt với thực dân Hà Lan. Mâu thuẫn nảy lên hàng đầu là mâu
thuẫn giữa một bên là toàn thể dân tộc Inđônêxia và bên kia là thực
dân châu Âu, trước hết và chủ yếu là thực dân Hà Lan. Để giải quyết
mâu thuẫn đó, đòi hỏi cả dân tộc Inđônêxia đứng lên đánh đổ thực dân
Hà Lan giành độc lập cho dân tộc. Đó chính là yêu cầu lịch sử của
Inđônêxia những năm cuỗi thế kỉ XIX đầu thế kỉ XX.
Trong quá trình xâm lược và thống trị Inđônêxia, thực dân Hà Lan đã
vấp phải sự phản kháng quyết liệt của nhân dân đất nước nghìn đảo
này. Năm 1633, có phong tròa nổi dậy của Cakiali ở Ambon, năm 1741
ở Cáctasura có phong trào “vì chiến tranh thần thánh”; những năm 40-
50 của thế kỉ XVIII, có những cuộc khởi nghĩa do các nhà tu lãnh đạo,
sang thực dân Hà Lanế kỉ XIX, nổi bật nhất là cuộc nổi dậy của
Đíppônêgôrô (1825-1830), chiến đấu của nhân dân Ache…
Những cuộc nổi dậy điều anh dũng nhưng cuối cùng đều không đi đến
thành công. Phải chăng nhân dân Inđônêxia đang thiếu một con đường
cứu nước đúng đán, đang thiếu một giai cấp lãnh đạo tiên tiến khả dĩ
dẫn dắt của cuộc đấu tranh giành độc lập này đi tới thắng lợi cuối cùng.
Vào đầu XX, nhân dân Inđônêxia, trước hết là các giai cấp tiên tiến mới
ra đời, trăn trở tìm cho Inđônêxia một hướng đi mới, một con đường
đúng đắn dẫn tới độc lập tự do.
Bài viết này, em xin giải quyết …………
Chủ nghĩa dân tộc của giai cấp tư sản-con đường dẫn tới độc lập của


Inđônêxia
Phong trào dân tộc tư sản Inđônêxia trước khi xuất hiện Đảng dân
tộc.
Bước vào đầu XX, ở Inđônêxia phong trào dân tộc theo xu hướng tư sản
đã vùng lên dưới những hình thức khác nhau. Những cuộc tranh luận
diễn ra giữa các nhóm trong phái tầng lớp tri thức về việc hiện đại hóa
nền văn hóa Inđônêxia truyền thống. Những ngưiowif có tư tưởng
truyền thống thấy được sức mạnh vĩ đại bát nguồn từ quá khứ của nền
văn hóa dân tộc, muốn khơi dậy và sử dụng sức mạnh của nền văn hóa
dân tộc để giành lại độc lập đã mất.
Dù các nhóm phái tronmg tầng lớp tri thức Inđônêxia còn đang tranh
luận trong những bước đi hứu hiệu để dẫn dắt dân tộc Inđônêxia ra
khỏi lầm than, những trăn trở của họ đã hé mở những tia sáng cho độc
lập, tự do, chiếu rọi vào đất nước nghìn đảo này.
Một điểm đáng lưu ý trong phong trào cứu nước của nhân dân
Inđônêxia là sự xuất hện vào năm 1900, người phụ nữ Giava tài ba
Raden Adgieng Cáctini. Bà và BS. Waidin Sudira Usada đều coi việc mở
mang nền giáo dục phương Tây là một biện pháp cứu nước. Năm 1908,
Usada và các tri thức Inđônêxia lập ra tổ chức dân tộc đầu tiên “Budi
Utomo”. Từ những hoạt độngban đầu thuần túy mang tính chất phát
triển văn hóa giáo dục, đến những năm 1915-1917, tổ chức đã nêu ra
những yêu cầu về chính trị, như đòi quyền bình đẳng giữa người
Inđônêxia và người Hà Lan. Năm 1912, Đảng Ấn Độ-Đảng chính trị được
thành lập ở Inđônêxia. Đảng hoạt động đòi quyền cho người Inđônêxia,
và cao hơn là đưa ra yêu cầu quyền độc lập cho Inđônêxia. “Chủ nghĩa
dân tộc toàn Inđônêxia” là tư tưởng của những người lãnh đạo Đảng.
Sớm hơn, vảo 1917, Đảng Sarekat Islam (Liên minh Hồi giáo) là Đảng
chính trị đầu tiên đã ra đời. Ngay từ khi trơpr thành đảng chính trị thì
đảng này tập trung vào những vấn đề chính trị, tôn giáo và nhanh
chóng trở thành phong trào nhân dân. Như vậy, giai cấp tư sản

Inđônêxia mà trước hết là tầng lớp tri thức tư sản là những người đi
tiên phong trong phong trào cứu nước, giải phóng dân tộc. Những năm
đầu XX, chính họ chứ không phải giai cấp phong kiến hoặc nông dân,
nhận thấy đất nước nghìn đảo lại nhiều dân tộc, tộc người, có nhiều tôn
giáo, lại bị một tên thực dân tàn bạo đô hộ thì con đường giải phóng
dân tộc không phải là con đường bạo động, nhất là khởi nghĩa đơn lẻ.
Các tri thức tư sản nhận thấy tình trạng thấp kém của dân tộc trong
hoàn cảnh thuộc địa, sự phân tán trong ý thức dân tộc…Do đó, họ đã cổ
súy tinh thần dân tộc, chủ nghĩa dân tộc, nâng cao trình độ hiểu biết
của dân chúng tập hợp dân tộc Inđônêxia thành một khối để hướng
mục tiêu đòi độc lập dân tộc từ thấp đến cao. Đó là bước đầu của sự
lựa chọn con đường đi tới độc lập hoàn toàn của giai cấp tư sản
Inđônêxia.
Tư tưởng Marhaenism và con đường đi tới độc lập Inđônêxia.
Vào những năm 20 của thế kỉ XX, cách mạng Inđônêxia có những
chuyển biến mới. Bên cạnh phong trào cách mạng theo xu hướng tư
sản ngày càng khởi sắc thì phong trào cách mạng theo xu hướng vô sản
cũng xuất hiện. Sự kiện tiêu biểu là sự ra đời của ĐCS Inđênôxia (5-
1920) và những cuộc đấu tranh do Đảng lãnh đạo. Tuy nhiên do đường
lối sai lầm cảu Đảng, trong điều kiện bấy giờ ở Inđônêxia mà con đường
vô sản do Đảng lãnh đạo, về cơ bản đã chấm dứt, để rồi phong trào
cách mạng GPDT Inđônêxia đã lựa chọn co đường cứu nước theo xu
hướn tư sản do Đảng dân tộc khởi xướng.
Năm 1927, một nhóm những người dân tộc chủ nghĩa cấp tiến, do
Xucacno và Kusama lãnh đạo lập ra Đảng dân tộc Inđônêxia (PNI), Đảng
này nổ lực tập hợp những tổ chức dân tộc chủ nghĩa hiện có để tiến
hành một phong trào bất hợp tác theo mô hình của Găngđi đòi độc lập
cho Inđônêxia. Cơ sở tư tưởng cương lĩnh của Đảng dân tộc là
Marhaenism của Xucacno.
Marhaenism là học thuyết do Xucacno soạn thảo trong những năm

1926-1933. Hoc thuyết đó có những điểm chính sau:
- Xu hướng chống đế quốc, thực dân rõ rệt.
- Con đường đi tới độc lập dân tộc chính là chính sách bất hợp tác với
thức dân, đêw quốc trong tấ cả các lĩnh vực kinh tế-chính trị xã hội.
- Nhiệm vụ của con đường “bất hợp tác” là giáo dục cho dân chúng vào
khả năng, sức mạnh của chính mình và đoàn kết tất cả các lực lượng
chống thực dan, đế quốc trong một mặt trận chung thống nhất.
Sau này, Xucacno đã mô hình hóa tư tưởng Marhaenism dưới dạng 5
nguyên tắc trong bài phát biểu của mình vào ngày 6-1-1945 và được gọi
là sự ra đời của “Pancha Sila”:
- Chủ nghĩa dân tộc thống nhất trên toàn lãnh thổ Inđônêxia.
- Chủ nghĩa quốc tế hay chủ nghĩa nhân văn, tức là từ bỏ chủ nghĩa sô
vanh để đoàn kết hữu nghị với tất cả dân tộc.
- Mufakat hay nền dân chủ phù hợp với những truyền thống xã hội
Inđônêxia.
- Xã hội thịnh vượng.
- Niểm tin vào thượng đế, nghĩa là mỗi người có quyền tôn thờ vị thần
của riêng mình.
Năm nguyên tắc này cũng chính là cơ sở tư tưởng cho nền độc lập
tương lai Inđônêxia.
Đảng dân tộc ra đời, nắm lấy ngọn cờ giải phóng dân tộc có uy tín trong
quần chúng, đã tổ chức cuộc đấu tranh gianhf độc lập dân tộc dựa trên
phong trào bất hợp tác với chính quyền thực dân, ngày càng giành
nhiều thắng lợi. Thế nhưng, ở Inđônêxia giai cấp tư sản, chủ trương bất
hợp tác không phải là biện pháp duy nhất, mà còn có một bộ phận nhỏ
giai cấp tư sản lãnh đạo, đã thành lập Đảng Inđônêxia vĩ đại (Parindra)
vào tháng 12-1935. Còn nữa năm 1937, Đảng Inđônêxia (Partinddo) giải
thể, một số người chủ trương bất hợp tác lập ra phong trào nhân dân
Inđônêxia (Gerindo) do Xucacno và Ami Xariphudin khởi xướng. Họ chủ
trương giành độc lập cho Inđônêxia nhưng có thể hợp tác với chính phủ

Hà Lan ở Inđônêxia trong một phạm vi nhất định. Vào năm 1936, họ đã
dự thảo “kiến nghị Xutacgiơ” trình bày ước muốn hợp tác với Chính phủ
Hà Lan để từng bước trong vòng 10 năm giải quyết vấn đề độc lập cho
Inđônêxia, chính quyền Hà lan bác bỏ kiến nghị này. Sự kiện này đã
thức đẩy những người chủ trương hợp tác và những người chủ trương
bất hợp tác trong cuộc đấu tranh đòi độc lập gắn bó với nhau. Sự thất
bại của nhóm hợp tác ở Inđônêxia, xuất hiện các Đảng Dân tộc (Gapi)
gồm Gerido, Paridra, Đảng Liên minh Hồi giáo và nhều đảng phái khác.
Đến dây sự thống nhất dân tộc và hành động được đẩy lên cao hơn và
cũng là sự chuẩn bị cho việc đón nhận độc lập sắp tới. Vào tháng 12-
1939, Liên đoàn các Đảng Dân tộc, đứng đầu là Xucacno, đã tổ chức Đại
hội nhân dân Inđônêxia bao gồm 90 đảng phái, biểu thị sự thống nhất
dân tộc. Đại hội tuyên bố là cơ quan thường trực của mặt trận dân tộc
thống nhất. Bằng các hoạt động của mình, các đảng phái và nhân dân
Inđônêxia công khai bày tỏ ý nguyện của mình cùng với chính quyền Hà
Lan chống nguy cơ xâm lược của quân phiệt Nhật và Inđônêxia sã dần
dần được nhận nền độc lập từ người Hà Lan, nhưng Hà Lan đã khước
từ. Sự thất vọng của người Inđônêxia trước thái độ của chính quyền Hà
Lan đã dẫn người Inđônêxia hy vọng một điều gì đó đến người Nhật.
Tháng 9-1940, người Nhật đánh chiếm Lạng Sơn và đổ bộ vào Hải
Phòng, mở đầu cho cuộc xâm lược Đông Nam Á. Sự tiến quân của
người Nhật quád nhanh khiến cho người Inđônêxia tin rằng kẻ chiến
thắng cuối cùng sẽ là người Nhật. Đối với Inđônêxia, việc Nhật hứa hẹn
sẽ trao trả nền độc lập và đối với vài nới ở Đông Nam Á thì Nhật đã
“diễn trò trao trả độc lập”. Tình hình đó làm cho người Inđônêxia càng
hi vọng vào Nhật. Truwf một số kẻ cam tâm làm tay sai cho Nhật còn
nhiều người Inđônêxia cũng chỉ coi Nhật nư một phương tiện giúp họ
đánh đuổi thực dân phương Tây. Xucacno, Hatta và các đồng chí của
ông đã tiến hànhcuoocj vận động yêu cầu Nhật trao trả độc lập trong
khi hoạt động chống Nhật của các lực lượng dân tộc ngày càng phát

triển. Trong điều kiện đó, người Nhật buộc phải chấp nhận những yêu
cầu độc lập của Inđônêxia là hứa trao trả độc lập cho Inđônêxia vào 1-
1-1946.
Nhưng tình hình của chiến tranh thế giới thứ hai phát triển mau lẹ, từ
đó những người lãnh đạo của các nhóm đấu tranh bí mật (sinh viên, tri
thức trẻ ) lại muốn chóng tuyên bố độc lập bằng chính sức mạnh của
nhân dân Inđônêxia, chứ không phải nhận độc lập như một thứ “quà
ban phát’ từ tay người Nhật. Họ đã dựa vào uy tín của Xucacno, Hatta
để thực hiện chủ trương đó. Ngày 17-8-1945, Xucacno đã trịnh trọng
đọc bản Tuyên ngôn độc lập của I trước các đại biểu sinh viên, công
nhâ, viên chức, các nhà buôn, các tầng lớp nhân dân khác.
Sau khi nước cộng hòa Inđônêxia ra đời, thực dân Hà Lan quay trở lại
đặt ách đô hộ, nhân dân Inđônêxia tiếp tiucj cuộc đấu tranh chống Hà
Lan trong điêu kiện mới. Tuy nhiên, con đường bảo vệ độc lập vẫn còn
là con đường của chủ nghĩa dân tộc với hình thức đấu tranh chính trị là
chủ yếu, có kết hợp với hình thức đấu tranh vũ trang.
Đảng cộng sản Inđônêxia và phong trào đấu tranh giải phóng dân tộc
Như trên đã nêu, ĐCS Inđênôxia đã ra đời sớm ở Đông Nam Á có uy tín
đối với nhân dân Inđônêxia và đã nhanh chóng đứng ra lãnh đạo phong
trào giải phóng dân tộc ở đất nước này. Lẽ ra, Đảng phải tận dụng
những thuận lợi lúc đó ở Inđônêxia, vạch ra con đường đứng đắn phù
hợp với dân tộc, với hoàn cảnh của đất nước để dẫn dắt cách mạng
Inđônêxia đi tới thành công. Thế nhưng, Đảng lại mắc những sai lầm
nghiêm trọng và triền miên để rồi làm mất đi lòng tin vào quần chúng,
mất đi vai trò đã có ngay từ đầu khi vừa ra đời trong việc đảm nhiệm sứ
mệnh lãnh đạo phong trào giải phóng dân tộc ở đất nước nghìn đảo
này. Sai lầm của Đảng tập trung mất điểm sau:
- Không củng cố được mối tình cảm rộng lớm của quần chúng đông đảo
đối với Đảng.
- Không làm được nhiệm vụ đoàn kết dân tộc.

- Mắc bệnh “cộng sản tả khuynh”.
- Không chú ý đúng mức công tác xây dựng Đảng trong quá trình cách
mạng.
- Không tận dụng và kết hợp các hình thức đấu tranh, chỉ chú ý nhấn
mạnh đấu tranh vũ trang.
Trong một nước thuộc địa kẻ thù không trừ một thủ đoạn nào để duy
trì ách thống trị, đất nước lại bị phân tán về mặt địa lý, đa dân tộc,
nhiều tôn giáo như Inđônêxia, muốn ginàh độc lập dân tộc, nhiệm vụ
trước mắt của cách mạng là phải tập hợp các lực lượng dân tộc để tạo
nên sức mạnh. ĐCS Inđênôxia không làm được nhiệm vụ này, họ rơi vào
chủ nghĩa “tả khuynh” không nắm được thực tiễn ở Inđônêxia. Đảng
“muốn giải quyết tất cả mọi vấn đề bằng một đòn: Tiêu diệt phong kiến,
giải phóng đất nước khỏi bọn Hà Lan, đập tan bọn đế quốc, lật đổ chính
ohur phản động, thanh toán phú nông, thanh toán tư sản dân tộc”.
Trong một nước thuộc địa, tư sản dân tộc có những nhược điểm của
họ, nhưng về căn bản họ có mâu thuẫn với đế quốc thực dân, cũng
muốn đánh đuổi thực dân để giành độc lập cho dân tộc. Ở Inđônêxia
lực lượng này cũng sớm trănm trở tìm đường cuuws nước, thế nhưng
ĐCS đã “bỏ qua” họ, thậm chí đòi tiêu diệt họ, thực hiện nay “chuyên
chính vô sản”.
Ở Inđônêxia sớm tồn tại các tôn giáo, trước hết là Đạo Hồi, đạo này
không những thâm nhập vào đông đảo quần chúng mà còn là lực lượng
đáng kể chống đế quốc từ sớm, lẽ ra phải đoàn kết với các tôn giáo,
tranh thủ họ, thì ĐCS lại nóng vội “quyết định rằng chủ nghĩa cộng sản
đối lập với cả chủ nghía Đại Hồi Giáo”. Kết quả là ĐCS đã đẩy lực lượng
dân tộc đối lập với Đảng, chống lại Đảng.
Sai lầm của ĐCS trong đường lối thể hiện ở tư tưởng nóng vội để đi tới
đích cuối cùng (“xây dựng ngay chủ nghĩa xã hội”), không thiết lập mặt
trận đoàn kết rộng rãi các giai cấp mà lại “chống tất cả mọi thứ chủ
nghĩa tư bản”, thậm chí “không thể tin nông dân trong bất cứ việc gì”,

tất cả “các tầng lớp trung gian và tri thức đã trở thành công cụ của chủ
nghĩa tư bản”… như sau này Ai Đích đã chỉ ra.
Sai lầm tả khuynh này đã dẫn đến sự tổn thất nặng nề của Đảng (như
các sự kiện 1926-1927, 1948, 1965), gần như chấm dứt vai trò lãnh đạo
của Đảng đối với phong trào giải phóng dân tộc và đã làm cho uy tín, vai
trò của Đảng Dân tộc ngày càng lên cao. Từ đó, ĐCS bỏ lỡ cả những cơ
hội cực kì hiếm có để giành độc lập cho dân tộc, như thời kì tháng 8-
1945.

×