Tải bản đầy đủ (.pdf) (6 trang)

TỔNG QUÁT VĂN MINH, LỊCH SỬ VÀ TÔN GIÁO NƯỚC ẤN ĐỘ_1 ppt

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (125.03 KB, 6 trang )

TỔNG QUÁT VĂN MINH, LỊCH SỬ VÀ TÔN
GIÁO NƯỚC ẤN ĐỘ
Nội dung
I - Tổng quan về Ân độ cổ trung đại
1. Địa lý và cư dân
2. Sơ lược lịch sử Cổ Trung đại Ân độ
Thời kỳ văn minh lưu vực sông Ấn (từ đầu thiên kỷ III đến giữa thiên
kỷ II TCN
Thời kỳ Vêđa (từ giữa thiên kỷ II đến giữa thiên kỷ I TCN)
Ấn Độ từ thế kỷ VI TCN đến thế kỷ XII
Ấn Độ từ thế kỷ XIII - XIX

II - Những thành tựu chính của văn minh Ân độ
1. Chữ viết
2. Văn học
Vêđa
Sử thi
Mahabharata Ramayan
Những tác phẩm của Caliđaxa
Các tác phẩm văn học viết bằng các phương ngữ
3. Nghệ thuật
4. Khoa học Tự nhiên
Thiên văn Toán học Vật lý Y dược học
5. Tôn giáo
Đạo Bàlamôn - Đạo Hinđu
Đạo Bàlamôn Đạo Hinđu
Đạo Phật
Học thuyết Phật giáo Sự phát triển của đạo Phật ở ấn Độ
Đạo Jain (Jainisme, Kỳna)
Đạo Xích (Sikh)



I - Tổng quan về Ấn Độ cổ trung đại
1. Địa lý và cư dân

Ấn Độ là một bán đảo ở Nam á, từ Đông Bắc đến Tây Bắc có núi chắn
ngang, trong đó có dãy Himalaya nổi tiếng. Ấn Độ chia làm hai miền
Nam, Bắc lấy dãy núi Vinđya làm ranh giới. Miền Bắc Ấn Độ có hai
con sông lớn là sông Ấn (Indus) và sông Hằng (Gange). Sông Ấn chia
làm 5 nhánh, nên đồng bằng lưu vực sông Ấn được gọi là vùng
Pungiáp (vùng Năm sông). Tên nước Ấn Độ là gọi theo tên con sông
này. Sông Hằng ở phía Đông được coi là một dòng sông thiêng. Từ
xưa nhân dân Ấn Độ thường đến khúc sông ở thành phố Varanadi
(Bênarét) để cử hành lễ tắm mang tính chất tôn giáo. Cả hai dòng
sông này đã bồi đắp thành hai đồng bằng màu mỡ ở miền Bắc Ấn Độ,
vì vậy nơi đây đã trở thành cái nôi của nền văn minh của đất nước
này.Cư dân Ấn Độ, về thành phần chủng tộc, gồm hai loại chính:
người Đraviđa chủ yếu cư chú ở miền Nam và người Arya chủ yếu cư
chú ở miền Bắc. Ngoài ra còn có nhiều tộc khác như người Hy Lạp,
người Hung Nô, người Arập Họ dần dần đồng hóa với các thành
phần cư dân khác, do đó vấn đề bộ tộc ở Ấn Độ là một vấn đề hết sức
phức tạp.Thời cổ trung đại, phạm vi địa lý của nước Ấn Độ bao gồm
cả các nước Pakixtan, Bănglađét và Nêpan ngày nay.


2. Sơ lược lịch sử cổ trung đại Ấn Độ
Từ khi bước vào xã hội có nhà nước cho đến khi bị thực dân Anh
chinh phục, lịch sử Ấn Độ có thể chia thành 4 thời kỳ lớn sau đây:

·Thời kỳ văn minh lưu vực sông Ấn (từ đầu thiên kỷ III đến giữa
thiên kỷ II TCN)


Từ khoảng đầu thiên kỷ III TCN, nhà nước Ấn Độ đã ra đời, nhưng cả
giai đoạn từ đó cho đến khoảng giữa thiên kỷ II TCN, trước đây chưa
được biết đến. Mãi đến năm 1920 và 1921, nhờ việc phát hiện ra hai
thành phố Harappa và Môhenjô Đarô cũng rất nhiều hiện vật bị chôn
vùi dưới đất ở vùng lưu vực sông Ấn, người ta mới biết được thời kỳ
lịch sử này. Những hiện vật khảo cổ học chỉ giúp người ta biết được
tình hình phát triển của các ngành kinh tế và văn hóa, qua đó có thể
suy ra đây là thời kỳ đã có nhà nước, chứ chưa biết được lịch sử cụ
thể, vì vậy người ta gọi thời kỳ này là thời kỳ văn hóa Harappa hoặc
thời kỳ văn minh lưu vực sông Ấn.Về đầu trang

·Thời kỳ Vêđa (từ giữa thiên kỷ II đến giữa thiên kỷ I TCN)

Thời kỳ này, lịch sử Ấn Độ được phản ánh trong các tập Vêđa nên gọi
là thời Vêđa. Vêđa vốn là những tác phẩm văn học, gồm có 4 tập là:
Rich Vêđa, Xama Vêđa, Atácva Vêđa và Yagiva Vêđa, trong đó Rich
Vêđa được sáng tác vào khoảng giữa thiên kỷ II đến cuối thiên kỷ II
TCN, còn 3 tập Vêđa khác thì được sáng tác vào khoảng đầu thiên kỷ
I TCN.Chủ nhân của thời kỳ Vêđa là người Arya (nghĩa là "Người cao
quý") mới di cư từ Trung á vào Ấn Độ. Địa bàn sinh sống của họ
trong thời kỳ này chủ yếu là vùng lưu vực sông Hằng. Trong giai
đoạn đầu của thời Vêđa, người Arya đang sống trong giai đoạn tan rã
của xã hội nguyên thủy đến khoảng cuối thiên kỷ II TCN, họ mới tiến
vào xã hội có nhà nước. Chính trong thời kỳ này, ở Ấn Độ đã xuất
hiện hai vấn đề có ảnh hưởng rất quan trọng và lâu dài trong xã hội
nước này, đó là chế độ đẳng cấp (varna) và đạo Bàlamôn.Về đầu
trang

. Ấn Độ từ thế kỷ VI TCN đến thế kỷ XII

Các quốc gia ở miền Bắc Ấn Độ và sự xâm lược của Alêchxăngđrơ
MakêđôniaBắt đầu từ thế kỷ VI TCN, Ấn Độ mới có sử sách ghi chép
về tình hình chính trị của đất nước mình. Lúc bấy giờ ở miền Bắc Ấn
Độ có 16 nước, trong đó mạnh nhất là nước Magađa hạ lưu sông
Hằng. Trong số các nước như ở Tây Bắc Ấn Độ, chỉ có nước Po là
tương đối lớn. Năm 327 TCN, sau khi tiêu diệt Ba Tư, quân đội
Makêđônia do Alêchxăngđrơ chỉ huy đã tấn công Ấn Độ. Quân đội
của nước họ đã chiến đấu rất dũng cảm nhưng cuối cùng bị thất bại.
Alêchxăngđrơ định tiến sang phía Đông tấn công nước Magađa
nhưng quân sĩ đã quá mệt mỏi sau một cuộc trường trinh nhiều năm
nên phải rút lui, chỉ để lại một lực lượng chiếm đóng ở hai cứ điểm
đã chiếm được mà thôi.Vương triều Môrya (321 - 187 TCN)Ngay sau
khi Alêchxăngđrơ rút lui, ở Ấn Độ đã dấy lên phong trào đấu tranh
giải phóng chống lại sự chiếm đóng của quân Makêđônia. Thủ lĩnh
của phong trào này là Sanđragupta, biệt hiệu là Môrya (chim công).
Quân Makêđônia bị đuổi khỏi Ấn Độ, Sanđragupta làm chủ được cả
vùng Pungiáp. Tiếp đó, ông tiến quân về phía Đông giành được ngôi
vua ở Magađa; lập nên một triều đại mới gọi là vương triều Môrya,
triều đại huy hoàng nhất trong lịch sử Ấn Độ cổ đại.Đến thời Axôca
(273-236 TCN), vương triều Môrya đạt đến giai đoạn cường thịnh
nhất. Đạo Phật ra đời từ khoảng thế kỷ V TCN, đến thời kỳ này được
phát triển nhanh chóng và trở thành quốc giáo. Sau khi Axôca chết,
vương triều Môrya suy sụp nhanh chóng, nước Magađa thống nhất
dần dần tan rã, đến năm 28 TCN thì diệt vong.Nước CusanTrong khi
tình hình chia cắt ở Ấn Độ đang diễn ra trầm trọng thì vào thế kỷ I,
tộc Cusan (cùng một huyết thống với người Tuốc) từ Trung á tràn
vào chiếm được miền Tây Bắc Ấn Độ lập thành một nước tương đối
lớn. Vua nước Cusan lúc bấy giờ là Canixca (78-123) cũng là một
người rất tôn sùng đạo Phật nên thời kỳ này Phật giáo cũng rất hưng
thịnh. Sau khi Canixca chết, nước Cusan ngày càng suy yếu, lãnh thổ

chỉ còn lại vùng Pungiáp và tồn tại đến thế kỷ V thì diệt vong.Vương
triều Gupta và vương triều HacsaTrong thế kỷ III, Ấn Độ lại bị chia
cắt trầm trọng. Năm 320, vương triều Gupta được thành lập, miền
Bắc và một phần miền Trung Ấn Độ tạm thời thống nhất một thời
gian. Từ năm 500-528, phần lớn miền Bắc Ấn Độ bị người Eptalil
xâm chiếm và thống trị, đến năm 535, triều Gupta diệt vong.Năm
606, vua Hácsa lại dựn lên một vương triều tương đối hùng mạnh ở
miền Bắc Ấn Độ. Chính trong thời kỳ này nhà sư Huyền Trang của
Trung Quốc đã sang Ấn Độ để tìm kinh Phật. Năm 648, Hácsa chết,
quốc gia hùng mạnh do ông dựng lên cũng tan rã.Từ đó cho đến thế
kỷ XII, Ấn Độ bị chia cắt càng trầm trọng và nhiều lần bị ngoại tộc
xâm nhập. Đặc biệt từ đầu thế kỷ XI, Ấn Độ thường bị các vương
triều hồi giáo ở Ápganixtan tấn công và đến năm 1200 toàn bộ miền
Bắc Ấn Độ bị nhập vào ápganixtan.

×