Tải bản đầy đủ (.pdf) (10 trang)

Đôi điều cần bàn lại về mối quan hệ giữa Nguyễn Bỉnh Khiêm - Nguyễn Dữ_5 ppsx

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (123.22 KB, 10 trang )

Đôi điều cần bàn lại về mối quan hệ
giữa Nguyễn Bỉnh Khiêm - Nguyễn Dữ -
Phùng Khắc Khoan

dưới triều Lê” (43), và “không thể có việc Nguyễn Bỉnh Khiêm phủ chính
sách Truyền kỳ mạn lục để nó có thể trở thành một áng văn hay, một
“thiên cổ kỳ bút”, bởi vì căn cứ vào nội dung tư tưởng các tác phẩm của
hai ông, chúng tôi (tức NPH) đã xác định tư tưởng thẩm mỹ của hai ông
là hoàn toàn khác nhau, thế giới quan và nhân sinh quan của hai ông
cũng khác nhau, từ đó chúng tôi (tức NPH) rút ra kết luận rằng: Nguyễn
Bỉnh Khiêm là người chủ trương cải tạo con người để bảo vệ trật tự chế
độ, còn Nguyễn Dữ lại là người chủ trương cải tạo chế độ để bảo vệ
quyền sống của con người” (44).

Ở đây, về cơ bản chúng tôi đồng ý và xin được nói thêm là trong tất cả
các tư liệu xưa hiện còn có đề cập đến vần đề này đều viết rằng Nguyễn
Dữ sau khi cáo quan trước hoặc trong năm 1527 và viết tập Truyền kỳ.
Sau đó, người cùng thời là Đại Hưng hầu Nguyễn Thế Nghi có diễn Nôm
tác phẩm, còn Đại An Hà Thiện Hán, cũng là người cùng thời, viết tựa
năm 1547 dưới đời Mạc. Thông tin này được chép trong Công dư tiệp
ký tục biên, còn trong của Công dư tiệp ký Vũ Phương Đề (thường để
phân biệt nên gọi nó là Công dư tiệp ký tiền biên), thì trong truyện về
Đại Hưng hầu do cụ Vũ chép, chúng tôi không thấy có chi tiết trên (tức
nói ông Nghi diễn sách ra chữ Nôm).

Bài Tựa của Hà Thiện Hán có một chi tiết cần chú ý: “ông từ quan về
nuôi mẹ cho tròn đạo hiếu, đến mấy năm không đặt chân đến chốn thị
thành, thế rồi ông viết tập lục này để ngụ ý”. Còn Lê Quý Đôn trong Kiến
văn tiểu lục có chép tiểu sử Nguyễn Dữ mà ở trên đã nêu, cũng cung
cấp chi tiết: “Sau vì nhà Mạc thoán đoạt, thề không đi làm quan, ở nhà
dạy học, không đặt chân đến chốn thị thành, viết Truyền kỳ mạn lục


bốn quyển”.
Nhà Thư tịch học Thúc Ngọc Trần Văn Giáp trong Lược truyện các tác
gia Việt Nam, tập 1, có viết: “làm Tri huyện Thanh Toàn rồi xin nghỉ về
nhà nuôi mẹ. Trong khi nghỉ, ông soạn ra bộ Truyền kỳ mạn lục” (45).

Nhờ những thông tin đó mà các nhà nghiên cứu mới nêu ra ức đoán,
suy luận như ở trên đã dẫn.

Như vậy, Nguyễn Dữ viết và hoàn thành tập truyện Truyền kỳ mạn lục
trong khoảng thời gian từ 1527 đến trước năm 1547. Có thể trước cái
mốc năm 1547 nhiều hơn, vì còn phải có thời gian để người đời chuyền
tay nhau đọc và chép lại, Hà Thiện Hán viết Tựa, rồi Nguyễn Thế Nghi
mới có cơ sở để diễn Nôm. Theo thiển ý, có thể Nguyễn Dữ viết tập
truyện này vào năm 1527, và có thể hoàn thành nó trong năm này hoặc
một vài năm sau đó, tức có thể từ khoảng năm 1527 đến trước năm
1530, vì “đương thời được nhiều người ưa thích”. Còn ý kiến phỏng
đoán của Nguyễn Phạm Hùng khi cho rằng Nguyễn Dữ hoàn thành tập
truyện từ trước năm 1527 là cần xem lại, dù nhà nghiên cứu này có
biện minh và lý luận nhiều, mà theo chúng tôi là chưa thuyết phục lắm.
Nhưng đây cũng là một đề xuất nghiêm túc, cần lưu ý để tiếp tục
nghiên cứu và thẩm định thêm.

3. Ở trên, chúng tôi đã trích lại ý kiến của những nhà nghiên cứu trước
đây đã viết xung quanh chuyện phủ chính văn bản của Nguyễn Dữ. Bên
cạnh khối tư liệu trên, cũng còn có rất nhiều công trình văn học sử hay
chuyên khảo khác có đề cập đến Nguyễn Bỉnh Khiêm, Nguyễn Dữ với
Truyền kỳ mạn lục, Phùng Khắc Khoan nhưng không nêu việc hai cụ
Trạng có tham gia phủ chính tác phẩm của Nguyễn Dữ, chẳng hạn như
công trình Việt Nam văn học sử yếu (1941) của Dương Quảng Hàm;
công trình Việt Nam văn học sử giản ước tân biên, 3 tập, (1965) của

Phạm Thế Ngũ v.v

Vì sao các nhà biên soạn văn học sử lại viết như thế? Trong khi, thực tế
là Vũ Phương Đề trong Công dư tiệp ký không hề có một truyện nào
chép riêng về Nguyễn Bỉnh Khiêm, Nguyễn Dữ, Phùng Khắc Khoan và
đọc kỹ, soi từng chữ cũng không tìm thấy một dòng thông tin nào về
việc Phùng Khắc Khoan tham gia phủ (bổ) chính, nhuận sắc văn bản
Truyền kỳ mạn lục của Nguyễn Dữ. Cụ Vũ Phương Đề cũng không viết
về Nguyễn Bỉnh Khiêm và cũng không nói chuyện Nguyễn Bỉnh Khiêm
tham gia phủ (bổ) chính, nhuận sắc văn bản Truyền kỳ mạn lục của
Nguyễn Dữ, mà chỉ chép lại bản Phả ký của Ôn Đình hầu Vũ Khâm Lân
vào sách của mình thôi. Đến đây, chúng tôi chợt nghĩ, việc này chưa
chắc cụ Vũ Phương Đề chép mà có thể một vị túc Nho nào đó ở đời sau
chép lại bản Phả ký đó vào sách của cụ thì sao? Cho nên mới có Công
dư tiệp ký tiền biên và Công dư tiệp ký tục biên. Khảo kỹ các truyện ký
trong hai văn bản này và so sánh những truyện cùng viết về một đề tài
thì mới thấy có nhiều chỗ, nhiều chi tiết khác xa nhau. Đó là chưa kể
đến tổng số truyện giữa hai văn bản cũng chênh lệch nhau. Rồi tiếp
theo là Tục Công dư tiệp ký của Trần Trợ nữa. Thật là rắc rối vô cùng!

Thực tế, tư liệu xưa nhất hiện còn có đề cập chuyện Nguyễn Bỉnh Khiêm
tham gia phủ chính Truyền kỳ mạn lục là bản Phả ký của Vũ Khâm Lân
viết về hành trạng Nguyễn Bỉnh Khiêm vào mùa đông năm Quý Hợi
1743, mang tên “Bạch Vân am cư sĩ Nguyễn công Văn Đạt phả ký” (Phả
ký về Bạch Vân am cư sĩ Nguyễn Văn Đạt) trong đó có đoạn: “Nhắc lại
khi Phùng Khắc Khoan còn theo học Bạch Vân tiên sinh, lúc thành tài
rồi, bỗng có một đêm tiên sinh đến chỗ nhà trọ của ông, rồi ngài gõ cửa
bảo rằng: “Gà gáy rồi đó, sao anh chưa dậy nấu ăn, mà còn nằm ỳ ở
đó”. Khắc Khoan hiểu rõ ý thầy nên vội vàng thu xếp lẻn vào vùng
Thanh Hoá, nhưng lại ẩn cư với ông Nguyễn Dữ, chứ chưa chịu ra làm

quan, trong thời gian nhàn rỗi ấy, Nguyễn Dữ có soạn ra bộ Truyền kỳ
mạn lục, được ông phủ chính rất nhiều, cho nên mới thành ra một cuốn
Thiên cổ kỳ bút” (46). Có thể cụm từ “được ông phủ chính rất nhiều”
làm cho người đọc hiểu người phủ chính là Phùng Khắc Khoan chăng?

Còn trong mục từ Nguyễn Bỉnh Khiêm, mục Nhà Nho đức nghiệp, phần
Nhân vật chí, quyển XI của bộ bách khoa thư Lịch triều hiến chương loại
chí, học giả Phan Huy Chú đã viết: “khi Dữ viết quyển Truyền kỳ mạn lục
được ông sửa chữa nhiều chỗ, sau thành áng văn hay của bậc đại gia”
(47). Hay như tư liệu cổ cho biết An Quang hầu là người chép lại thơ
chữ Hán của Nguyễn Bỉnh Khiêm có nói Nguyễn Bỉnh Khiêm đã bổ chính
Truyền kỳ mạn lục (48).

Hãy khoan bàn việc Nguyễn Bỉnh Khiêm có tham gia phủ chính cuốn
sách của Nguyễn Dữ như Vũ Khâm Lân đã nói, mà ở đây phải cần xác
định lại thời điểm Phùng Khắc Khoan vào Thanh Hoá với ý định giúp nhà
Lê trung hưng như lời thầy học đã dặn. Có xác định mốc thời điểm thì
mới thấy mấu chốt vấn đề và sẽ có chìa khoá để góp phần giải mã nó.
Trên cơ sở tư liệu hiện nay, chính xác mà nói thì Phùng Khắc Khoan đến
Bạch Vân am trọ học là năm 1443, và sau một thời gian dùi mài kinh sử
nơi đây thì nghe lời thầy, Phùng Khắc Khoan đã vào Thanh Hoá cuối
năm Quý Sửu 1553 để tham gia công cuộc trung hưng, vì căn cứ vào
những bài thơ có ghi rõ năm tháng trong tập Ngôn chí thi tập của ông.
Nhưng theo sử ghi lại thì ông đã theo Lê Bá Ly vào Thanh Hoá năm
1550. Chỗ này, có thể các sử gia đã nhầm vì nếu Khắc Khoan theo Bá Ly
vào xứ Thanh lúc này, thì tại sao ông không được vua Lê chúa Trịnh tin
dùng, như đã tin dùng Lê Bá Ly, Lương Hữu Khánh ? Bá Ly là một vị
quan to của nhà Mạc đã bỏ Mạc vào Nam theo Lê, còn Hữu Khánh (con
cụ Bảng nhãn Lương Đắc Bằng, một cựu thần nhà Lê) là đồng môn cũ ở
Bạch Vân am, mà lúc này cụ Phùng phải sống khổ sở, đói khát, có lần

phải làm kẹo để dụ dỗ trẻ con đến học, giành giật học trò của thầy đồ
nghèo ở vùng Thanh Hoá kia mà!
Giả sử nếu lúc này Nguyễn Dữ đang ẩn cư tại núi rừng Thanh Hoá như
vài tư liệu cũ ghi chép thì giữa Nguyễn Dữ và Phùng Khắc Khoan là hai
thế hệ cách xa nhau (bởi khi Nguyễn Dữ cáo quan được một năm
(1527) thì năm sau Phùng Khắc Khoan mới chào đời (1528), và có thể
trước đây họ chưa từng quan hệ, quen biết nhau, thì làm gì có việc
Phùng Khắc Khoan “lại ẩn cư với ông Nguyễn Dữ, chứ chưa chịu ra làm
quan” (tức đến ở nhờ nhà Nguyễn Dữ) như Vũ Khâm Lân đã viết ? Ở
đây, Vũ Khâm Lân đã chép lại theo lời truyền trong dân gian mà không
kiểm chứng khi cho rằng Phùng Khắc Khoan là bạn học của Nguyễn Dữ,
giờ lại nói thêm họ Phùng vào Thanh Hoá sống ẩn cư cùng Nguyễn Dữ
nữa! Theo chúng tôi, điều này thật là mơ hồ và phi sự thật ! Vấn đề này
mục 3, chúng tôi đã khẳng định rồi. Hơn nữa, năm 1553, khi họ Phùng
vào xứ Thanh thì có lẽ lúc này Nguyễn Dữ cũng đã già rồi ! Chuyện họ
Phùng vào Thanh sống ẩn cư cùng Nguyễn Dữ mà cụ Vũ Khâm Lân đã
chép không đúng, thì chuyện cụ Trạng Trình phủ chính, nhuận sắc “rất
nhiều cho nên mới thành ra một cuốn Thiên cổ kỳ bút” thì làm sao mà
tin cho được! Nguyễn Dữ không phải là học trò Nguyễn Bỉnh Khiêm (dù
cụ Vũ Khâm Lân cho ông là học trò), lại sống cùng thời, thành đạt và
làm quan trước cụ Nguyễn Bỉnh Khiêm. Hơn nữa, theo tư liệu xưa thì
Nguyễn Dữ viết tập Truyền kỳ lúc cáo quan về ẩn cư, tức năm 1527
hoặc trước năm này, và bấy giờ Nguyễn Bỉnh Khiêm chỉ là một hàn sĩ,
bạch diện thư sinh, với cái nghèo đeo bám, thì lúc này làm sao mà cụ có
đủ kiến văn và bút lực để phủ chính cuốn sách rất nhiều, để cho nó
thành Thiên cổ kỳ bút ? Hai người, hai thân phận và địa vị khác nhau,
bỗng dưng trở thành “thầy – trò” và vị thầy lại phủ chính tác phẩm cho
trò, để tác phẩm này thành một áng văn hay của bậc đại gia ! Cho nên,
theo chủ kiến chúng tôi là những gì mà cụ Vũ Khâm Lân viết ở trên chỉ
là theo lời truyền của dân gian, rất khó tin, thật đáng để nghi ngờ, nên

cần phải xem xét lại cho kỹ càng.

Còn việc vài bộ giáo trình văn học sử viết rằng theo Vũ Phương Đề thì
Phùng Khắc Khoan đã tham gia phủ chính Truyền kỳ mạn lục là cách nói
cách viết thiếu căn cứ, không cơ sở khoa học, cũng có thể do hiểu nhầm
câu văn của Vũ Khâm Lân như trên có trích dẫn, cho dù đó là lời truyền
miệng của dân gian, nhưng dân gian cũng không có lời truyền này và cụ
Vũ Phương Đề cũng không có viết như thế. Đó chỉ là cách nói thiếu căn
cứ của một số tác giả khi biên soạn văn học sử. Cụ Vũ Phương Đề không
viết, cụ Trần Trợ sau này cũng không viết như thế, tại sao các nhà
nghiên cứu lại gán cho cụ ?
Rõ khổ! Hơn nữa, sách của Nguyễn Dữ viết xong, đương thời nhiều
người truyền tụng và diễn Nôm, việc này xảy ra trước năm 1547 là năm
Hà Thiện Hán viết lời tựa cho sách, thì có thể nói, lúc này Phùng Khắc
Khoan chưa đầy 20 tuổi, còn là học trò ở am Bạch Vân của Nguyễn Bỉnh
Khiêm, thì làm sao mà đủ trình độ và bút lực để nhuận sắc văn bản
truyền kỳ của Nguyễn Dữ ?
Điều đó có thể nói, cụ Nguyễn Bỉnh Khiêm cũng như cụ Phùng Khắc
Khoan không thể và cũng không có điều kiện để tham gia phủ chính,
nhuận sắc truyện Truyền kỳ mạn lục của Nguyễn Dữ. Còn việc các bậc
tiên Nho đã viết như đã dẫn ở trên là theo truyền thuyết, giai thoại dân
gian rồi chép lại mà thôi, chứ các cụ chưa có điều kiện để kiểm chứng
thực hư ra sao. Từ đó, các danh sĩ ở cuối thế kỷ XVIII và XIX trước đây,
rồi các nhà nghiên cứu thời nay tin theo đó, y cứ mà viết lại, viết tiếp. Vì
thế mà thế hệ hậu học hôm nay mới khổ tâm truy tìm, kiểm chứng.
LỜI KẾT:

Viết bài này chúng tôi muốn nêu lên những hoài nghi khoa học mà
nhiều năm qua chúng tôi đã tự thắc mắc, để xin ý kiến chỉ bảo của quý
vị độc giả, chứ không ngoài mục đích nào khác. Những thắc mắc trên,

có lần chúng tôi đã tham vấn với GS. Lê Trí Viễn (trường ĐHSP TP.
HCM), GS. Nguyễn Đình Chú (trường ĐHSP HN), PGS. TS. Nguyễn Đăng
Na (trường ĐHSP HN), PGS. Mai Cao Chương (trường ĐHKHXH và NV –
ĐHQG TP. HCM) là những chuyên gia đầu ngành về văn học trung đại
Việt Nam và đã được chỉ dẫn nhiều điều bổ ích, nhân đây một lần nữa
chúng tôi xin được tỏ lòng tri ân Quý Thầy. Những thắc mắc mà chúng
tôi đã nêu ở trên, thiết nghĩ, khoa học là khoa học; lòng tôn quý kính
trọng vẫn là lòng quý kính. Không thể nhập nhằng giữa hai lĩnh vực. Cho
dù, nếu Phùng tiên sinh không phải là em ruột của cụ Trạng Trình và
Bạch Vân cư sĩ không phải là thầy dạy học của Nguyễn Dữ, họ Phùng
cũng không phải là bạn đồng môn với Nguyễn Dữ và càng không đủ
điều kiện để phủ chính và nhuận sắc văn truyền kỳ của Nguyễn Dữ đi
chăng nữa thì tấm lòng của kẻ hậu sinh lại thiển học như chúng tôi, đối
với các bậc tiền bối danh sĩ như các cụ, chúng tôi vẫn tôn quý kính trọng
như ngày nào, từ lúc cắp sách đến trường, vỏ vẻ đọc được vài ba trang
sách, đến nay sau 30 năm giảng dạy văn học trung đại Việt Nam ở
trường Cao đẳng và Đại học, thì tấm lòng ngưỡng vọng đối với các bậc
tiền nhân vẫn không hề suy suyển. Những thắc mắc hoài nghi trên và lời
giải đáp, ức đoán của chúng tôi là như thế. Khoa học là “cherché et
recherché” tức tìm đi kiếm lại mà! Nếu những luận đoán trên là hợp lý
thì chúng rất có ý nghĩa để chúng ta nhận thức lại thân thế, sự nghiệp,
góp phần soi sáng tư tưởng nghệ thuật trong tác phẩm của các tác giả,
nhất là nhận thức lại áng thiên cổ kỳ bút của Nguyễn Dữ. Rất mong quý
vị cao minh, quý đồng nghiệp vui lòng chỉ giáo để chúng tôi được học
hỏi thêm.

×