Tải bản đầy đủ (.pdf) (14 trang)

SIÊU ÂM THẬN CẤP CỨU phần 2 ppt

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (823.62 KB, 14 trang )

SIÊU ÂM THẬN CẤP CỨU
phần 2


Đau ở mạn sườn hoặc đau bụng cấp kèm với tiểu máu là những lý do
nhập viện tương đối hay gặp ở khoa cấp cứu. Tuy rằng tắc nghẽn hệ niệu
có thể là một chẩn đoán khả dĩ nhất ở những bệnh nhân này, nhưng vẫn
còn có những chẩn đoán phân biệt bao gồm những bệnh gây đe dọa tính
mạng mà trong đó quan trọng nhất là dãn và vỡ túi phình động mạch chủ
bụng. Siêu âm cấp cứu tại giường là một phương tiện giúp xác định
nhanh chóng chẩn đoán trong tắc nghẽn hệ niệu cấp tính và giúp loại trừ
những bệnh gây đe dọa tính mạng khác.


Cũng cần phải tìm hiểu một chút về những thuật ngữ thường gặp để mô tả
sinh bệnh học của tình trạng tắc nghẽn hệ niệu. Tắc nghẽn dòng chảy của
nước tiểu về mặt cấu trúc được gọi là tắc nghẽn hệ niệu bệnh lý. Ngoại
trừ trường hợp sự tắc nghẽn diễn tiến từ từ, thông thường thì tình trạng
tắc nghẽn sẽ gây đau và được gọi là cơn đau quặn thận. Nguyên nhân
thường gặp nhất là sỏi thận bị rơi vào niệu quản gây kẹt (sỏi kẹt niệu
quản). Dòng nước tiểu bị sỏi chặn lại gây ứ đọng và làm cho đầu gần của
niệu quản dãn ra (dãn niệu quản). Khi sự tắc nghẽn tiến triển hơn nữa,
đến lượt những cấu trúc nằm gần thượng lưu hơn, chẳng hạn như hệ
thống góp của thận (bể thận và các đài thận) sẽ bị dãn ra, hiện tượng này
được gọi là thận ứ nước. Nếu thận ứ nước nặng, nhu mô thận bị chèn ép,
và nếu sự chèn ép kéo dài đủ lâu (khoảng 2 - 4 tuần) sẽ gây mất chức
năng thận.

Như đã mô tả ở trên, nguyên nhân thường gặp nhất của cơn đau quặn thận
là thận ứ nước và sỏi kẹt niệu quản. Tuy nhiên, nói chung, bất cứ thứ già
có thể gây bít tắc bên trong lòng của hệ thống góp hoặc gây chèn ép từ


bên ngoài đều có thể chặn dòng chảy của nước tiểu và gây cơn đau quặn
thận.

Siêu âm tại giường trong khoa cấp cứu cũng rất có ích đối với những
bệnh nhân thiểu niệu hoặc vô niệu, suy thận cấp hoặc viêm thận bể thận.
Tương tự như đối với những bệnh nhân bị đau quặn thận, nó cũng giúp
cho bác sĩ thu hẹp lại những chẩn đoán phân biên bằng cách khảo sát
những cấu trúc nằm sau phúc mạc xem có bất thường hay không nhưng
nó cũng chỉ cho được những manh mối có giới hạn về tình trạng chức
năng của hệ tiết niệu.


GIẢI PHẪU HỌC

Thận là một cơ quan nằm sau phúc mạc và được bảo vệ từ phía sau bởi
những cung sườn dưới. Thận phải nằm ngay dưới gan còn thận trái nằm
ngay dưới lách. Cực trên của hai thận hơi nghiêng vào trong và ra sau.
Mỗi thận đều có một lớp vỏ xơ ở bên ngoài, lớp giữa chứa tủy thận (các
tháp thận) với lớp vỏ bao quanh (các cột Bertin) và vùng xoang thận bên
trong có chứa các đài thận và bể thận cùng với những mạch máu lớn, mô
mỡ và bạch huyết.
Đường vào xoang thận nằm ở mặt giữa của mỗi thận và được gọi là rốn
thận. Nó có chứa các nhánh lớn của tĩnh mạch thận, động mạch thận, niệu
quản, mô liên kết và mô bạch huyết.
Toàn bộ phức hợp thận bao gồm thận, tuyến thượng thận, rốn thận, lớp
mỡ quanh thận và được bao quanh bởi 1 lớp mạc được gọi là mạc Gerota.
Resized to 85% (was 541 x 566) - Click image to
enlarge



Hình minh họa 1: Tổng quan về thận

Niệu quản đi ra khỏi thận từ rốn thận và nó là một ống cơ đi từ sau phúc
mạc và trước cơ psoas đến bàng quang. Nó ngoặt vào trong rồi băng qua
các mạch chậu rồi đi dọc theo thành khung chậu trước khi hướng về phía
trước và vào trong để đi đến đáy bàng quang.
Có 3 chỗ hẹp tự nhiên của niệu quản: (1)khúc nối bể thận - niệu quản, là
nơi bể thận hẹp lại để trở thành niệu quản; (2)vị trí băng ngang qua các
mạch chậu do nó bị uốn cong và ép lại và (3)chỗ nối niệu quản - bàng
quang. Bàng quan nằm ngay phía sau xương mu và phía trước trực tràng
(đối với nam) hoặc tử cung (đối với nữ). Nó là một cấu trúc cơ mà khi ở
trạng thái căng sẽ chiếm trọn lòng khung chậu, và đôi khi tiếp giáp với
thành bụng.

KỸ THUẬT, CẤU TRÚC BÌNH THƯỜNG VÀ NHỮNG BIẾN THỂ

Đầu dò thường được sử dụng để khảo sát thận là những đầu dò có tần số
3.5-5 MHz. Để khảo sát thận phải, bênh nhân nằm ngửa và đầu dò được
đặt ở khoảng gian sườn dưới bên phải, trên đường nách giữa. Dùng gan
làm cửa sổ xuyên âm và hướng đầu dò chếch nhẹ về phía sau (hướng về
phía thận). Nhẹ nhàng quét đầu dò (lên xuống hoặc từ bên này sang bên
kia) để khảo sát toàn bộ thận. Nếu cần, bạn có thể yêu cầu bệnh nhân hít
vào và thở ra để quan sát sự dịch chuyển của thận. Quan sát thận theo trục
dọc (trục dài) và trục ngang (trục ngắn) (hình 1 - 3 và video 1 - 2).




Resized to 85% (was 541 x 373) - Click image to
enlarge

Resized to 85% (was 541 x 380) - Click image to
enlarge



Hình 1a và 1b: hình ảnh theo trục dọc của thận phải bình thường
Resized to 85% (was 541 x 393) - Click image to
enlarge



Hình 2: hình ảnh theo trục ngang của thận phải bình thường. Chú ý vị trí
túi mật (GB) kế bên gan và tĩnh mạch chủ dưới (IVC)

Your browser does not support inline frames or is currently configured
not to display inline frames.


Video 1: trục dọc của thận phải bình thường.

Your browser does not support inline frames or is currently configured
not to display inline frames.


Video 2: trục ngang của thận phải bình thường.
Resized to 89% (was 520 x 402) - Click image to
enlarge




Hình 3: Hình cắt ngang của hệ thống cung cấp máu cho thận phải bình
thường (Doppler màu hiển thị các mạch máu ở rốn thận bằng màu đỏ và
xanh)



Đối với thận trái, bênh nhân được nằm ngửa hoặc nghiêng phải. Đặt đầu
dò ở khoảng gian sườn ở đường nách sau. Vị trí có thể ở gần phía đầu và
nằm gần phía sau hơn so với khi khảo sát thận phải. Tiếp tục quét nhẹ đầu
dò để khảo sát toàn bộ thận. Khảo sát thận trên trục dọc và ngang (Video
3 và 4)


Your browser does not support inline frames or is currently configured
not to display inline frames.
Video 3: hình ảnh thận trái bình thường ở trục dọc.
Your browser does not support inline frames or is currently configured
not to display inline frames.
Video 4: hình ảnh thận trái bình thường ở trục ngang.
Tùy thuộc bạn quan sát thận theo trục nào mà hình ảnh siêu âm của thận
sẽ khác nhau. Khi quan sát theo trục dọc, thận sẽ có hình dạng của 1 trái
banh bầu dục và thường dài khoảng 9-12 cm và rộng khoảng 4-5 cm
(bình thường trong vòng 2 cm ở mỗi bên). Khi quan sát theo trục ngang,
thận sẽ có dạng hình chữ C. Thận bình thường có một vùng sáng bao
quanh được tạo bởi mạc Gerota và mô mỡ quanh thận. Mặt rìa thận xuất
hiện dưới dạng nhiều hạt xám được tạo bởi vỏ thận và các tháp thận. Đôi
khi bạn có thể thấy những tháp thận riêng biệt nhưng không phải lúc nào
cũng có thể thấy như vậy. Vùng trung tâm của thận, vùng xoang thận,
sáng hơn (tăng âm, có hồi âm) và bao gồm các đài thận, bể thận và mỡ ở
xoang thận. Luôn luôn quét cả hai thận để so sánh và tương quan với hình

ảnh lâm sàng. Niệu quản thường khó quan sát thấy trên siêu âm, nhưng
khi dãn ra thì nó sẽ xuất hiện dưới dạng cấu trúc dạng ống đi từ phía dưới
của thận (hình 4). Bàng quang khi chứa đầy nước tiểu có thể nhìn thấy
được dễ dàng ở vùng hố chậu và thường là một cấu trúc chứa đầy dịch có
thành dày.

Có nhiều biến thể bình thường về mặt cấu trúc giải phẫu của thận. Một số
kiểu thường gặp bao gồm: bể thận đôi, là tình trạng xoang thận bị chia ra
bởi cột Bertin bị phì đại; thận hình móng ngựa, là tình trạng thận trái và
thận phải dính với nhau, thường là dính ở cực dưới; thận lạc chỗ, là tình
trạng 1 hoặc 2 thận nằm ở bên ngoài hố thận bình thường.

BỆNH HỌC

Chẩn đoán cơn đau quặn thận dựa vào 3 yếu tố:

1. Tình trạng lâm sàng của bệnh nhân.

2. Sự hiện diện của máu trong tổng phân tích nước tiểu. 89% bệnh nhân
bị sỏi kẹt niệu quản có > 0 RBC mỗi vùng trong quang trường kính hiển
vi khi soi nước tiểu.

3. Chẩn đoán hình ảnh, bao gồm chụp niệu đồ tĩnh mạch (IVP), CT scan
hoặc siêu âm.

Mục tiêu của siêu âm thận tại giường là để đánh giá một cách nhanh
chóng bệnh nhân ở khoa cấp cứu bị đau bụng hoặc đau mạn sườn kèm
với tiểu máu hoặc giảm lượng nước tiểu thải ra (thiểu niệu) để trả lời một
số câu hỏi cơ bản sau:
 Thận có bị ứ nước không?

 Một bên hay hai bên?
 Có dịch quanh thận hay không?
 Bàng quang có căng không?
 Có sỏi không?
 Động mạch chủ có bình thường không?
Bất thường trên siêu âm mà bạn thường gặp nhất ở những bệnh nhân nghi
ngờ cơn đau quặn thận cấp là thận ứ nước. Mức độ ứ nước của thận phụ
thuộc vào mức độ và sự lan tràn của hiện tượng tắc nghẽn (hình minh họa
2, hình 5-7). Những phương pháp hình ảnh học có thể thay thế để chẩn
đoán cơn đau quặn thận cấp bao gồm chụp niệu đồ tĩnh mạch và CT xoắn
ốc. Chụp niệu đồ tĩnh mạch là bơm thuốc cản quan vào tĩnh mạch rồi
chụp một loạt phim X quang bụng. Chất cản quang sau khi được tiêm vào
tĩnh mạch sẽ được thận lọc và xuất hiện trên phim dưới hình dạng trắng
sáng. Phim sẽ được xem lại để đánh giá mức độ chậm trễ trong quá trình
lọc những chất cản quan của thận và tìm bằng chứng của thận ứ nước khi
chất cản quang được lọc. Sự chậm trễ trong khi lọc chất cản quang kèm
với sự hiện hiện của tình trạng ứ nước cho thấy có sự tắc nghẽn. Với CT
xoắn ốc độ phân giải cao, ta có thể thu được những hình ảnh của thận và
bàng quang mà không cần dùng chất cản quang tiêm tĩnh mạch, các bác sĩ
có thể xem được một chuỗi những hình ảnh cắt ngang kế cận nhau của
thận và niệu quản để xác định thận ứ nước. So sánh với siêu âm hay IVP,
CT scan có thể xác định thường kỳ sỏi niệu quản và đo được kích thước
gần đúng của sỏi. Nhưng cần nhớ là không có phương pháp nào có thể
xác định thận ứ nước hoặc sỏi niệu quản trong 100% trường hợp.

Những ưu điểm của siêu âm thận cấp cứu là:
 Có thể làm được tại giường
 Không có chất phóng xạ
 Không cần tiêm chất cản quang tĩnh mạch
 Có thể lập lại được

 Nhanh chóng
Những bất lợi của siêu âm thận cấp cứu là nó không thể khảo sát được
chức năng thận (IVP có thể làm được) và nó thường không thể xác
định/đo kích thước của sỏi niệu quản.
Resized to 85% (was 541 x 438) - Click image to
enlarge


Hình 4: Niệu quản dãn được nhìn thấy ở phía dưới bàng quang (hình cắt
ngang).
Resized to 85% (was 541 x 355) - Click image to
enlarge

Hình minh họa 2: phân độ ứ nước của thận
Resized to 85% (was 541 x 386) - Click image to
enlarge

Hình 5: hình cắt ngang của thận phải ứ nước nhẹ
Resized to 85% (was 541 x 400) - Click image to
enlarge

Hình 6a: hình cắt theo trục dọc của thận ứ nước trung bình
Resized to 85% (was 541 x 406) - Click image to
enlarge

Hình 6b: hình cắt theo trục ngang của cùng một thận với ứ nước độ
trung bình
Resized to 85% (was 541 x 433) - Click image to
enlarge


Hình 7: Thận ứ nước nặng. Lưu ý hình dạng bình thường của thận hoàn
toàn bị thay đổi do ứ nước nặng.

×