Tải bản đầy đủ (.doc) (32 trang)

Tiểu luận: Nghệ thuật lãnh đạo của Đảng trong cuộc kháng chiến chống Mỹ (1954 - 1975) pps

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (497.53 KB, 32 trang )

TIỂU LUẬN
Đề tài:

Nghệ thuật lãnh đạo của Đảng trong cuộc
kháng chiến chống Mỹ (1954 - 1975)


Tiểu luận Lịch sử Đảng

Giảng viên hướng dẫn: Thầy Trần Như Cương

MỤC LỤC
---Mục lục.......................................................................................................................1
Lời cảm ơn..................................................................................................................3
LỜI MỞ ĐẦU...........................................................................................................4
1. Lí do chọn đề tài..............................................................................................4
2. Mục đích nghiên cứu.......................................................................................4
3. Nhiệm vụ nghiên cứu......................................................................................4
4. Phương pháp nghiên cứu................................................................................5
5. Phạm vi nghiên cứu.........................................................................................5
I. BỐI CẢNG LỊCH SỬ CỦA CUỘC KHÁNG CHIẾN.....................................6
1. Bối cảnh đất nước.............................................................................................6
2. Bối cảnh quốc tế...............................................................................................8
3. Kẻ thù chính của cách mạng miền Nam là đế quốc Mỹ với chính sách thực
dân mới.....................................................................................................................10
II. NGHỆ THUẬT LÃNH ĐẠO CỦA ĐẢNG TRONG KHÁNG CHIẾN
CHỐNG MỸ CỨU NƯỚC(1954-1975)................................................................13
1. Kiềm chế Đế quốc Mỹ để thắng chúng một cách có lợi nhất......................13
1.1 Kiềm chế Mỹ chậm đưa quân vào trực tiếp tiến hành chiến tranh xâm
lược nước ta 13
1.2 Kiềm chế đế quốc Mỹ leo thang chiến tranh từng bước......................14


1.3 Kiềm chế chiến lược "chiến tranh cục bộ" của đế quốc Mỹ trên phạm
vi chiến trường miền Nam........................................................................................15
2. Biết giành thắng lợi từng bước.....................................................................17
3. Sáng tạo nhiều cách đánh, cách thắng đế quốc Mỹ......................................22
4. Tổ chức và chỉ đạo phối hợp chặt chẽ cách mạng hai miền.........................24
5. Đoàn kết và tranh thủ sự giúp đỡ quốc tế cao nhất......................................26

-----------------------------------------------------------------------------------------------------------Sinh viên thực hiện: Nguyễn Thị Xuân Lan
-2-


Tiểu luận Lịch sử Đảng

Giảng viên hướng dẫn: Thầy Trần Như Cương

III. Ý NGHĨA LỊCH SỬ VÀ BÀI HỌC KINH NGHIỆM CỦA CUỘC
KHÁNG CHIẾN CHỐNG MỸ CỨU NƯỚC (1954-1975)................................28
1. Ý nghĩa lịch sử của cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước (1954-1975).....28
2. Bài học kinh nghiệm của cuộc kháng chiến chống Mỹ (1954-1975)............29
KẾT LUẬN.............................................................................................................30
Mục lục tham khảo...................................................................................................31

-----------------------------------------------------------------------------------------------------------Sinh viên thực hiện: Nguyễn Thị Xuân Lan
-3-


Tiểu luận Lịch sử Đảng

Giảng viên hướng dẫn: Thầy Trần Như Cương


LỜI CẢM ƠN
Đầu tiên em xin gửi lời cảm ơn đến thầy Trần Như Cương – Giảng viên
Trường Đại Học Sư Phạm TPHCM, người đã trực tiếp giảng dạy và hướng dẫn
cho em bộ môn “Lịch sử Đảng” đã cung cấp kiến thức giúp em hoàn thành bài
nghiên cứu này. Em cũng xin chân thành cảm ơn sự hỗ trợ tận tình của các thầy cơ
cũng như sự cộng tác giúp đỡ, đóng góp ý kiến của các bạn sinh viên khoa Toán Tin học trường Đại Học Sư Phạm TPHCM,
Vì thời gian cũng như kiến thức cịn hạn chế nên bài tiểu luận không thể tránh
khỏi những sai sót. Kính mong sự góp ý từ phía thầy cơ và các bạn. Em xin chân
thành cảm ơn!

TP Hồ Chí Minh, ngày 10 tháng 4 năm 2010.
Sinh viên thực hiện
Nguyễn Thị Xuân Lan

-----------------------------------------------------------------------------------------------------------Sinh viên thực hiện: Nguyễn Thị Xuân Lan
-4-


Tiểu luận Lịch sử Đảng

Giảng viên hướng dẫn: Thầy Trần Như Cương

LỜI MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài
Các cuộc chiến tranh đi qua để lại bao đau thương và mất mát Ai cũng biết
hậu quả chiến tranh là to lớn biết bao. Cho dù đó là chiến tranh phi nghĩa hay
chiến tranh chính nghĩa thì đất nước đó cũng hứng chịu những tổn thất nặng nề.
Song, không phải đất nước nào cũng có quyền chọn cho mình nền hịa bình, tự
do. Có những lúc họ khơng muốn chiến tranh, nhưng họ buộc phải chiến đấu cho
nền độc lập nước nhà. Và Việt Nam - đất nước chúng ta rơi vào tình thế đó.

Hai cuộc kháng chiến chống Pháp và Mỹ đi qua, chúng ta khơng khỏi kinh
hồng trước những con số thiệt hại cả về người và của. Bây giờ chúng ta đang
hưởng nền hịa bình, chúng ta đang độc lập. Song, điều đó khơng có nghĩa là
chúng ta qn q khứ, bởi lẽ khơng có q khứ sẽ khơng có hiện tại và tương lai.
Chúng ta đã chiến đấu anh dũng trong các cuộc kháng chiến. Chúng ta có
những người lãnh đạo tài giỏi, chúng ta có Đảng lãnh đạo tài tình, chúng ta có sự
đồn kết đồng lịng của dân tộc và chúng ta đã chiến thắng.
Có rất nhiều yếu tố để tạo nên thắng lợi vẻ vang trong các cuộc kháng chiến
chống Pháp và Mỹ, nhưng ở đây tôi xin nêu ra một trong những nguyên nhân dẫn
đến thắng lợi trong các cuộc kháng chiến mà ít ai nghĩ đến đó là “nghệ thuật lãnh
đạo”. Có thể nói vui: “Lãnh đạo là một nghệ thuật và người lãnh đạo là một nghệ
sĩ”, họ phải cân nhắc, sáng tạo để đưa ra những sách lượt, chiến lược vào các thời
điểm khác nhau, nhắm đem đến chiến thắng mà ít tổn hại nhất.
Người xưa có câu “nước khơng có vua như rắn mất đầu” để nói rõ tầm quan
trọng của người đứng đầu đất nước. Ở nước ta cũng vậy, từ khi còn chiến tranh
cho đến lúc hòa bình thì Đảng Cộng Sản Việt Nam ln giữ một vai trị cực kì
quan trọng trong tất cả các lĩnh vực của đất nước. Bây giờ tôi sẽ hướng các bạn
vào quá khứ, vào thời kì kháng chiến chống Mỹ để cùng phân tích nghệ thuật lãnh
đạo của đảng trong cuộc kháng chiến chống Mỹ.
Xuất phát từ những vấn đề nói trên, tơi đã chọn đề tài: “Nghệ thuật lãnh đạo
của Đảng trong cuộc kháng chiến chống Mỹ (1954 - 1975)”.
2.Mục đích nghiên cứu
Đề tài được nghiên cứu nhằm mục đích tìm hiểu q khứ hào hùng của dân
tộc, ơn lại truyền thống đấu tranh giữ nước của cha ông ta và hơn hết là làm rõ tầm
quan trọng của Đảng Cộng Sản Việt Nam trong việc lãnh đạo nhân dân đấu tranh
giành độc lập dân tộc. Từ đó khơi gợi lòng yêu nước, lòng trung thành với Đảng
và rút ra những kinh nghiệm quí báu từ nghệ thuật lãnh đạo của Đảng trong kháng
chiến chống Mỹ.
3.Nhiệm vụ nghiên cứu
-----------------------------------------------------------------------------------------------------------Sinh viên thực hiện: Nguyễn Thị Xuân Lan

-5-


Tiểu luận Lịch sử Đảng

Giảng viên hướng dẫn: Thầy Trần Như Cương

1. Nghiên cứu tình hình đất nước trong giai đoạn 1954-1975.
2. Phân tích nghệ thuật lãnh đạo của Đảng trong cuộc kháng chiến chống Mỹ(1954
-1975).
3. Bài học kinh nghiệm.
4. Phương pháp nghiên cứu
- Phương pháp trò chuyện: trao đổi, tham khảo và ghi nhận ý kiến của các bạn,
thầy cô.
- Phương pháp đọc sách và tài liệu: dựa vào một số bài tiểu luận để biết được cấu
trúc, cách hành văn của một bài nghiên cứu và còn dựa vào các tài liệu liên quan
trên sách, báo, tạp chí, internet…
5. Phạm vi nghiên cứu
Chỉ nghiên cứu nghệ thuật lãnh đạo của Đảng trong giai đoạn cuộc kháng
chiến chống Mỹ (1954-1975) ở Việt Nam ( không nghiên cứu sâu vấn đề trên
phạm vi thế giới và trong các cuộc kháng chiến khác).

-----------------------------------------------------------------------------------------------------------Sinh viên thực hiện: Nguyễn Thị Xuân Lan
-6-


Tiểu luận Lịch sử Đảng

Giảng viên hướng dẫn: Thầy Trần Như Cương


I. BỐI CẢNH LỊCH SỬ CỦA CUỘC KHÁNG CHIẾN
1. Bối cảnh đất nước
1.1) Cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước của nhân dân ở miền Nam
(1954-975) là sự tiếp tục cuộc cách mang dân tộc dân chủ nhân dân dưới sự
lãnh đạo của Đảng.
Từ khi ra đời (3-2-1930), Đảng ta đã chỉ rõ: đất nước ta vốn là một Tổ
quốc thống nhất và nhân dân ta có truyền thống đoàn kết chống ngoại xâm bảo
vệ bờ cõi và cùng nhau xây dựng đất nước. Nhưng từ khi thực dân Pháp xâm
lược, chúng đã cùng bọn vua quan phong kiến đầu hàng, thống trị nhân dân ta,
xã hội Việt Nam thành một xã hội thuộc địa nửa phong kiến, với hai mâu thuẫn
cơ bản: mâu thuẫn giữa toàn thể dân tộc ta với đế quốc xâm lược và mâu thuẫn
giữa nhân dân ta, mà chủ yếu là nông dân, với giai cấp địa chủ phong kiến.
Đảng ta gánh vác sứ mệnh lãnh đạo dân tộc giải quyết hai mâu thuẫn trên là
thực hiện hai nhiệm vụ của cuộc cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân: chống
đế quốc xâm lược, giành độc lập thống nhất Tổ quốc và chống phong kiến,
giành lại ruộng đất cho nông dân.
Tháng 7-1954, miền Bắc được giải phóng, nhưng miền Nam cịn dưới
ách thống trị của đế quốc và bọn tay sai. Đế quốc Mỹ hất cẳng thực dân Pháp,
cùng bọn tay sai Ngơ Đình Diệm tiếp tục thống trị nhân dân ta ở miền Nam,
hai mâu thuẫn cơ bản trên vẫn tồn tại và đất nước tạm thời bị chia cắt. Nhân
dân ta tiến hành kháng chiến chống đế quốc Mỹ và bọn tay sai là tiếp tục cuộc
cách mạng đã được tiến hành dưới sự lãnh đạo của Đảng từ đâu nǎm 1930,
nhằm hoàn thành sự nghiệp giành độc lập dân tộc và thống nhất Tổ quốc để
tiến lên xây dựng chủ nghĩa xã hội. Đây là sự tiếp nối lịch sử tất yếu. Đúng như
Đảng ta đã khẳng định tại Đại hội tân thứ III (tháng 9-1960): "Cuộc đấu tranh
cách mạng của nhân dân miền Nam là sự tiếp tục các cuộc khởi nghĩa Nam Kỳ,
khởi nghĩa Ba tơ, tổng khởi nghĩa tháng Tám và cuộc kháng chiến trường kỳ
của nhân dân ta trong điều kiện mới của lịch sử". Từ bối cảnh lịch sử chiến đấu
và chiến thắng ấy, nhân dân ta ở miền Nam bước vào cuộc kháng chiến chống
đế quốc Mỹ xâm lược với tư thế của người chiến thắng và đã kế thừa được

nhiều kinh nghiệm quý báu của Cách mạng tháng Tám và kháng chiến chống
thực dân Pháp. Đó cũng là nhân tố bảo đảm thắng lợi của cách mạng miền
Nam. Đồng chí Lê Duẩn nói: Chúng ta thắng Mỹ là nhờ có những kinh nghiệm
quý báu của Cách mạng tháng Tám và 9 nǎm kháng chiến chống Pháp. Khơng
có Cách mạng tháng Tám, khơng có 9 nǎm kháng chiến chống Pháp thì khơng
thể có thắng lợi của kháng chiến chống Mỹ.
1.2) Cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước diễn ra trong điều kiện đất nước
-----------------------------------------------------------------------------------------------------------Sinh viên thực hiện: Nguyễn Thị Xuân Lan
-7-


Tiểu luận Lịch sử Đảng

Giảng viên hướng dẫn: Thầy Trần Như Cương

bị chia làm hai miền, phải tiến hành đồng thời hai chiến lược cách mạng khác
nhau dưới sự lãnh đạo thống nhất của Đảng.
Đây là đặc điểm lớn nhất và cũng là nét độc đáo của cách mạng nước ta
từ tháng 7 nǎm 1954 đến tháng 5 nǎm 1975.
Trong suốt thời gian đó việc hoạch định đường lối chiến lược và sách
lược cách mạng của Đảng phải phản ánh rõ đặc điểm lớn này. Từ mục tiêu
chung của cách mạng cả nước và mục tiêu cụ thể của từng miền đến những vấn
đề chủ trương, sách lược và phương pháp tiến hành phải phù hợp với đặc điểm
trên và sát đúng với điều kiện lịch sử cụ thể của từng miền. Đồng thời, phải xác
định rõ vị trí cách mạng từng miền và mối quan hệ khǎng khít giữa cách mạng
hai miền trong thế chiến lược chung của cả nước.
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ III của Đảng (9-1960), xác định đường
lối cách mạng của nước ta:
- Một là, tiến hành cách mạng xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc.
- Hai là, giải phóng miền Nam khỏi ách thống trị của đế quốc Mỹ và

bọn tay sai, thực hiện thống nhất nước nhà, hoàn thành độc lập và dân chủ
trong cả nước.
Hai nhiệm vụ chiến lược ấy có quan hệ mật thiết với nhau và có tác dụng
thúc đẩy lẫn nhau.
Về vị trí chiến lược cách mạng của từng miền, Đảng ta xác định: miền
Bắc là cǎn cứ địa chung của cách mạng cả nước và sự nghiệp cách mạng xã hội
chủ nghĩa ở miền Bắc có vai trò quyết định nhất đối với sự phát triển cách
mạng cả nước.
Cách mạng miền Nam có tác dụng quyết định trực tiếp đối với sự nghiệp
giải phóng miền Nam khỏi ách thống trị của đế quốc Mỹ và tay sai. Thông qua
thực hiện nhiệm vụ cách mạng ở mỗi miền mà góp phần thực hiện nhiệm vụ
chung của cả nước là hoàn thành độc lập, thống nhất đất nước.
Việc xác định đường lối cách mạng tiến hành đồng thời hai chiến lược
cách mạng khác nhau ở hai miền là nét độc đáo, chưa có tiền lệ trong lịch sử, là
thành cơng lớn của Đảng ta.
Đó là đường lối duy nhất đúng, biểu hiện tinh thần độc lập tự chủ, sáng
tạo của Đảng ta.
Miền Bắc hồn tồn giải phóng, tiến hành cách mạng xã hội chủ nghĩa và
là hậu phương lớn của cả nước, đã tạo cho cách mạng miền Nam có điều kiện
-----------------------------------------------------------------------------------------------------------Sinh viên thực hiện: Nguyễn Thị Xuân Lan
-8-


Tiểu luận Lịch sử Đảng

Giảng viên hướng dẫn: Thầy Trần Như Cương

thuận lợi mới khác hẳn các thời kỳ lịch sử trước đây. Đó là một nguyên nhân
chủ yếu để cách mạng miền Nam đánh thắng đế quốc Mỹ và tay sai.
Trên thực tế, việc tiến hành đồng thời hai chiến lược cách mạng khác

nhau trên hai miền Nam - Bắc chẳng những không mâu thuẫn, mà lại từng
bước đưa cách mạng hai miền cùng phát triển, cùng đi lên trong thế tương hỗ,
thúc đẩy nhau phát triển, tạo ra sức mạnh tổng hợp đánh thắng hoàn toàn đế
quốc Mỹ xâm lược và chế độ tay sai của chúng, giải phóng miền Nam, thống
nhất Tổ quốc.
2. Bối cảnh quốc tế.
Hệ thống xã hội chủ nghĩa thế giới lúc này đang ở thời kỳ phát triển
mạnh mẽ, có tác động to lớn tới quá trình phát triển của thế giới. Hệ thống xã
hội chủ nghĩa thế giới nối liền từ châu á sang châu Âu, không ngừng phát triển
và củng cố về mọi mặt. Nếu miền Bắc là hậu phương trực tiếp cho cách mạng
miền Nam, thì hệ thống xã hội chủ nghĩa thế giới lúc này nối liền với miền Bắc
xã hội chủ nghĩa của Việt Nam là hậu phương rộng lớn đáng tin cậy, một thuận
lợi chưa bao giờ có đối với cách mạng nước ta.
Cùng với sự lớn mạnh của hệ thống xã hội chủ nghĩa thế giới, phong
tràon giải phóng dân tộc cuồn cuộn dâng cao ở châu á châu Phi và châu Mỹ
latinh, hệ thống thuộc đia của chủ nghĩa đế quốc bị thu hẹp và đi vào quá trình
tan rã. Cuộc đấu tranh cho dân sinh, dân chủ và hồ bình ở các nước tư bản chủ
nghĩa phát triển rộng khắp và liên tục. So sánh lực lượng trên thế giới lúc đó
ngày càng thay đổi có lợi cho chủ nghĩa xã hội, cho lực lượng cách mạng. Chủ
nghĩa đế quốc tiếp tục suy yếu và khó khǎn. Cách mạng thế giới lúc này đang ở
thế tiến cơng. Cách mạng Việt Nam đã hồ được vào trào lưu chung của cách
mạng thế giới.
Thời kỳ này cũng cần lưu ý rằng, tuy chủ nghĩa đế quốc đã suy yếu
nhưng chừng nào còn chủ nghĩa đế quốc thì vẫn cịn miếng đất để xảy ra chiến
tranh. Lực lượng xâm lược gây chiến chủ yếu trên thế giới là đế quốc Mỹ.
Chúng đang dẫn đầu các thế lực đế quốc hiếu chiến chạy đua vũ trang, củng cố
các khối liên minh quân sự xâm lược, xây dựng các cǎn cứ quân sự, phục hồi
chủ nghĩa phátxít ở Tây Đức và quân phiệt ở Nhật Bản, nhóm lên những lò lửa
chiến tranh ở châu Âu và châu á, ra sức chuẩn bị chiến tranh mới. Nguy cơ
chiến tranh thế giới vẫn tồn tại. Nhân dân các nước đang đứng trước sự đe doạ

hết sức nghiêm trọng của một cuộc chiến tranh hạt nhân. Mặt khác, sự tàn sát
và huỷ diệt ghê gớm trong cuộc Chiến tranh thế giới lần thứ hai và hậu quả của
nó cịn làm cho nhiều người lo ngại và lẫn lộn giữa chiến tranh chính nghĩa và
chiến tranh phi nghĩa. Trong điều kiện đó đã nảy sinh nhiều tư tưởng và
-----------------------------------------------------------------------------------------------------------Sinh viên thực hiện: Nguyễn Thị Xuân Lan
-9-


Tiểu luận Lịch sử Đảng

Giảng viên hướng dẫn: Thầy Trần Như Cương

khuynh hướng của chủ nghĩa xét lại, chủ nghĩa cơ hội, chủ nghĩa dân tộc làm
cho tình hình thế giới phức tạp.
Họ tuyệt đối hoá đường lối chung sống hồ bình, đi vào phịng ngự bị
động, gây khơng ít khó khǎn cho phong trào cách mạng thế giới, đặc biệt với
phong trào giải phóng dân tộc. Trong tình hình đó, nhân dân ta tiến hành cách
mạng giải phóng miền Nam, Đảng và nhân dân ta phải giải quyết thành cơng
mối quan hệ giữa hồ bình và cách mạng. Giải quyết mối quan hệ này, đòi hỏi
Đảng ta hết sức sáng suốt và có sách lược đúng đắn. Thực tế Đảng ta đã giải
quyết tốt mối quan hệ đó, góp phần bảo vệ hồ bình, đồng thời thúc đẩy sự
nghiệp cách mạng tiến lên hoàn thành độc lập dân tộc và thống nhất Tổ quốc.
Khi nhân dân ta tiến hành kháng chiến chống Mỹ cứu nước, trên thế giới
tồn tại bốn mâu thuẫn chủ yếu: mâu thuẫn giữa hệ thống xã hội chủ nghĩa thế
giới với các lực lượng tư bản chủ nghĩa thế giới; mâu thuẫn giữa các nước đế
quốc với nhau; mâu thuẫn giữa các dân tộc đòi độc lập với các lực lượng đế
quốc thực dân; mâu thuẫn giữa giai cấp vô sản với giai cấp tư sản
Đế quốc Mỹ xâm chiếmvà thiết lập sự thống trị của chúng ở miền Nam
nước ta đã làm nảy sinh và sâu sắc thêm cả bốn mâu thuẫn trên ở miền Nam.
Đế quốc Mỹ thực hiện âm mưu xâm lược lâu dài miền Nam, biến nơi đây

thành cǎn cứ quân sự của chúng nhằm ngǎn chặn "làn sóng" cộng sản tràn
xuống Đông - Nam á, và chuẩn bị tiến công các nước xã hội chủ nghĩa. Mỹ
tuyên bố chiến tranh ở Việt Nam là chiến tranh hệ tư tưởng, giữa hệ tư tưởng
cộng sản với hệ tư tưởng "tự do" kiểu Mỹ. Đế quốc Mỹ hất cẳng thực dân
Pháp, độc chiếm miền Nam, đẩy dần các đế quốc châu Âu ra khỏi Đông Nam
á, chèn ép quyền lợi của tư bản thực dân nhiều nước ở vùng này, càng làm cho
mâu thuẫn giữa Mỹ với các đế quốc khác thêm sâu sắc. Đế quốc Mỹ áp đặt chủ
nghĩa thực dân mới ở miền nam, chia cắt đất nước ta làm cho cả dân tộc ta mâu
thuẫn gay gắt với chúng, nhân dân ta đã đồng tâm đứng dậy chống Mỹ xâm
lược, kiên quyết giành độc lập dân tộc, thống nhất đất nước. Đế quốc Mỹ cố
xây dựng ở miền Nam một giai cấp tư sản mại bản làm tay sai cho chúng, làm
mâu thuẫn giữa giai cấp công nhân và tư bản ở miền Nam càng trở nên sâu sắc.
Để phục vụ chiến tranh của chúng ở miền Nam, đế quốc Mỹ bóc lột giai cấp
cơng nhân và nhân dân lao động Mỹ, bắt họ sang miền Nam làm bia đỡ đạn để
bọn tư bản Mỹ thu những món lợi kếch xù tử cuộc chiến tranh này.
Mỹ cịn lơi kéo các nước tay sai đổ của đổ người vào cuộc chiến tranh
của chúng ở miền Nam. Do vậy, giai cấp công nhân, nhân dân lao động Mỹ và
các nước chư hầu của Mỹ bị lôi cuốn vào cuộc chiến tranh, ngày càng mâu
thuẫn quyết liệt với tư bản Mỹ, với các nhà cầm quyền Mỹ và giai cấp tư bản
các nước chư hầu Mỹ, làm rung chuyển hậu phương của chúng.
-----------------------------------------------------------------------------------------------------------Sinh viên thực hiện: Nguyễn Thị Xuân Lan
- 10
-


Tiểu luận Lịch sử Đảng

Giảng viên hướng dẫn: Thầy Trần Như Cương

Điều đó nói lên rằng, cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước của nhân dân ta là

cuộc đụng đầu lịch sử mang tính thời đại sâu sắc
3. Kẻ thù chính của cách mạng miền Nam là đế quốc Mỹ với chính sách
thực dân mới.
Chống đế quốc Mỹ với chính sách thực dân mới của chúng là điểm mới,
mang tính đặc trưng của cách mạng miền Nam lúc này, khác các thời kỳ trước
đây của cách mạng nước ta là chống chủ nghĩa thực dân cũ của đế quốc Pháp.
Đế quốc Mỹ phá hoại Hiệp định Giơ-ne-vơ, hất cẳng thực dân Pháp, độc
chiếm miền Nam nước ta, biến nơi đây thành thuộc đia kiểu mới và cǎn cứ
quân sự của chúng. Từ đây, đế quốc Mỹ đã thành kẻ thù chủ yếu và nguy hiểm
nhất của nhân dân ta. Từ tháng 7 nǎm 1954, Nghị quyết Ban chấp hành Trung
ương Đảng lần thứ 6 đã xác định: "Đế quốc Mỹ là kẻ thù chính của nhân dân
u chuộng hồ bình thế giới và hiện đang trở thành kẻ thù chính, trực tiếp của
nhân dân Đông Dương". Do vậy, trong giai đoạn mới phải chĩa mui nhọn vào
đế quốc Mỹ.
Chính sách thực dân mới của Mỹ là con đẻ của chủ nghĩa tư bản lũng
đoạn, của chính sách đế quốc thực dân. Nó ra đời trong cơn tổng khủng hoảng
và trước nguy cơ sụp đổ sau Chiến tranh thế giới thứ hai.
Đảng ta nhận biết sớm bản chất chủ nghĩa thực dân mới của Mỹ. Nghị
quyết 9 của Trung ương đã chỉ ra: "Đặc điểm chủ yếu của chính sách thực dân
là đế quốc Mỹ không trực tiếp cai trị mà thơng qua chính quyền tay sai, dùng
viện trợ kinh tế và quân sự để áp bức, bóc lột nhân dân miền Nam".
Chính sách thực dân mới là hiện tượng mới, do vậy ta chưa thể hình
dung và thấy rõ, đây đủ ngay trong thời gian đầu của cuộc cách mạng miền
Nam. Qua thực tiễn đấu tranh với Mỹ, chúng ta ngày càng hiểu đầy đủ bản
chất và thủ đoạn của chính sách thực dân mới của chúng. Về chính trị, Mỹ
khơng thiết lập bộ máy thực dân thơng qua chính quyền tay sai với chiêu bài
quốc gia, dân chủ giả hiệu. Về quân sự, Mỹ tin dùng và ra sức xây dựng đội
quân nguy đủ mạnh làm lực lượng chiến đấu chiến lược cho chúng. Với cả hai
mặt chính trị và quân sự như vậy, đế quốc Mỹ nhầm một ý đồ nham hiểm là
khơi sâu và làm đậm nét tính chất nội chiến của cuộc đấu tranh, che đậy bản

chất thực dân xâm lược của chúng. Về kinh tế, Mỹ dùng viện trợ làm công cụ
chủ yếu để cột giữ chế độ tay sai ở miền Nam đi vào con đường phát triển tư
bản chủ nghĩa, đối lập với miền Bắc, chia cắt lâu dài nước ta. Về vǎn hoá - xã
-----------------------------------------------------------------------------------------------------------Sinh viên thực hiện: Nguyễn Thị Xuân Lan
- 11
-


Tiểu luận Lịch sử Đảng

Giảng viên hướng dẫn: Thầy Trần Như Cương

hội, chúng ra sức du nhập lối sống Mỹ, vǎn hố Mỹ, hịng làm mất đi tất cả
những gì là tinh hoa, truyền thống dân tộc ta.
Ngày càng hiểu sâu sắc bản chất và thủ đoạn xảo quyệt của chính sách
thực dân mới của Mỹ, Đảng và nhân dân ta đã có những chủ trương, phương
pháp đấu tranh sát đúng, thích hợp, từng bước đánh bại chúng. Phương pháp
cách mạng đúng đắn nhất để đánh bại chủ nghĩa thực dân mới là phải kết hợp
chặt chẽ lực lượng chính trị với qn sự và hình thức đấu tranh chính trị với
quân sự. Đó là quy luật cơ bản của phương pháp cách mạng bạo lực ở miền
Nam.
Quá trình xâm lược và thống trị của đế quốc Mỹ ở miền Nam là quá
trình nhất quán thực hiện chủ nghĩa thực dân mới. Âm mưu xâm lược nước ta
của đế quốc Mỹ đã có từ lâu.
Song, đến giữa nǎm 1954 mới có thời cơ để Mỹ trực tiếp thực hiện âm
mưu đồ của chúng. Ngày 20-7-1954, Hiệp định Giơnevơ về lập lại hồ bình ở
Đơng Dương được ký kết. Đế quốc Mỹ phá hoại Hội nghị Giơnevơ. Chúng đã
không chịu ký vào bản tuyên bố chung của Hội nghị Giơnevơ. Ngày 20-71954, tổng thống Mỹ Aixenhao đã trắng trợn tuyên bố: "Mỹ không ký Hiệp
định Giơnevơ nên không bị ràng buộc bởi Hiệp định".
Đế quốc Mỹ ráo riết thực hiện âm mưu của chúng sau Hiệp định

Giơnevơ là: nhanh chóng hất cẳng Pháp, độc chiếm quyền thống trị ở miền
Nam và Đông Dương; đàn áp phong trào cách mạng và áp đặt chủ nghĩa thực
dân mới của Mỹ ở miền Nam nước ta, chia cắt lâu dài Việt Nam, biến miền
Nam thành thuộc địa và cǎn cứ quân sự của chúng ở Đơng Nam Á.
Sự thật thì Mỹ đã chuẩn bị triển khai chủ nghĩa thực dân mới ở miền
Nam từ trước. Mỹ đã nuôi dưỡng và đào tạo bọn tay sai ngay từ đầu những
nǎm 50. Trước khi Hiệp định Giơnevơ được ký, đế quốc Mỹ đã tìm cách ép
Pháp đưa Ngơ Đình Diệm (tay sai của Mỹ) về giành ghế thủ tướng nguy của
Bửu Lộc (tay sai của Pháp) vào ngày 7-7-1954, mở đầu quá trình Mỹ hất cẳng
Pháp và cũng là mở đầu quá trình Mỹ áp đặt chủ nghĩa thực dân mới ở miền
Nam nước ta.
Ngày 8-9-1954, Mỹ lôi kéo một số nước đế quốc và chư hầu lập ra khối
SEATO, đặt miền Nam Việt Nam, Lào và Campuchia vào khu vực bảo hộ của
khối này. Cùng lúc, Mỹ xúc tiến việc mua chuộc và tiêu diệt các lực lượng thân
Pháp ở miền Nam không chịu hàng phục Mỹ, tǎng cường viện trợ trực tiếp cho
chính quyền Diệm và điều khiển chúng chống phá cách mạng. Ngày 2-121954, Mỹ ép Pháp ký kết việc rút quân Pháp khỏi miền Nam Việt Nam và ngày
-----------------------------------------------------------------------------------------------------------Sinh viên thực hiện: Nguyễn Thị Xuân Lan
- 12
-


Tiểu luận Lịch sử Đảng

Giảng viên hướng dẫn: Thầy Trần Như Cương

10-12-1954, thỏa thuận một kế hoạch tổ chức, huấn luyện quân nguy theo
phương hướng của Mỹ. Ngày 23-10-1955, Ngô Đình Diệm tổ chức cái gọi là:
"tưng cầu dân ý" phế truất Bảo Đại. Sau đó ba ngày, Diệm lên làm tổng thống,
tuyên bố thành lập nhà nước "Việt Nam cộng hoà" và đổi "quân đội quốc gia",
tay sai của Pháp, thành ", quân lực Việt Nam cộng hoà", tay sai của Mỹ. Như

vậy, bằng tất cả các thủ đoạn ngoại giao, quân sự, chính trị, kinh tế, đế quốc
Mỹ đã thực hiện được âm mưu hất cẳng thực dân Pháp, độc chiếm miền Nam,
triển khai chính sách thực dân mới của chúng ở miền Nam nước ta trên các
mặt.
Từ đây, dân tộc ta phải trực tiếp đương đâu với chủ nghĩa thực dân mới
của đế quốc Mỹ xâm lược miền Nam nước ta. Qua 21 nǎm kháng chiến cực kỳ
gian khổ và oanh liệt, dân tộc ta đã toàn thắng đế quốc Mỹ, chặt đứt một mắt
xích trong hệ thống chiến lược toàn cầu phản cách mạng của đế quốc Mỹ và
đẩy chủ nghĩa thực dân mới của Mỹ thêm một bước suy yếu và khủng hoảng;
thực hiện được nguyện vọng thiêng liêng là hoàn thành độc lập, thống nhất đất
nước. Cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước đã để lại cho chúng ta nhiều kinh
nghiệm quý góp phần tích cực vào phong trào đấu tranh chống chủ nghĩa đế
quốc và bảo vệ hồ bình thế giới.

-----------------------------------------------------------------------------------------------------------Sinh viên thực hiện: Nguyễn Thị Xuân Lan
- 13
-


Tiểu luận Lịch sử Đảng

II.

Giảng viên hướng dẫn: Thầy Trần Như Cương

NGHỆ THUẬT LÃNH ĐẠO CỦA ĐẢNG TRONG
KHÁNG CHIẾN CHỐNG MỸ CỨU NƯỚC(1954-1975)

1. Kiềm chế đế quốc Mỹ để thắng chúng một cách có lợi nhất
Ln tìm cách kiềm chế đế quốc Mỹ để tránh thế khó khǎn bất lợi và

thắng chúng một cách có lợi nhất là một chủ trương nhất quán của Đảng ta. Chủ
trương đó dựa trên cơ sở phân tích chính xác âm mưu, thủ đoạn và khả nǎng hành
động của đế quốc Mỹ trong các mối quan hệ quốc tế đương thời; mặt khác thấy rõ
thế và lực cùng khả nǎng phát triển của ta.
Đế quốc Mỹ mang dã tâm xâm lược nước ta, vì vậy, tìm cách kiềm chế
những âm mưu và hành động của chúng là cần thiết và có thể thực hiện được.
Trước hết, tránh những khó khǎn, bất lợi sớm phải đụng đối với một kẻ
thù lớn mạnh hơn ta nhiều lần, mà lực lượng của ta còn hạn chế. Chúng ta có
chính nghĩa và đang ở thế phát triển, nên có khả nǎng tập hợp đơng đảo lực lượng
cách mạng trong nước và tranh thủ được các lực lượng dân chủ và hồ bình trên
thế giới, có khả nǎng ngǎn chặn, phá tan những âm mưu và hành động chiến tranh
xâm lược của đế quốc Mỹ.
Mặt khác, đế quốc Mỹ xâm lược nước ta là phi nghĩa, không thể lừa bịp
được mãi nhân dân và Quốc hội Mỹ. Nước Mỹ tuy giàu có bậc nhất thế giới, song
khơng phải bọn xâm lược Mỹ muốn huy động bao nhiêu lực lượng vào cuộc chiến
tranh xâm lược nước ta cũng được. Mỹ có chiến lược tồn cầu phản cách mạng,
nhưng khơng phải lực lượng của Mỹ ở đâu cũng mạnh, chúng cũng phải tự kiềm
chế.
1.1) Kiềm chế Mỹ chậm đưa quân vào trực tiếp tiến hành chiến tranh
xâm lược nước ta
Đầu những nǎm 40, đế quốc Mỹ đã có âm mưu xâm chiếm Việt Nam,
nhất là từ đầu những nǎm 50 thì Mỹ triển khai ráo riết. Phân tích đúng âm mưu
của Mỹ, Đảng ta đã lãnh đạo toàn dân kiên quyết đứng lên làm Cách mạng tháng
Tám nǎm 1945, giành chính quyền về tay nhân dân trước khi quân Đồng minh kéo
vào Đông Dương, cũng như đánh bại thực dân Pháp xâm lược và can thiệp Mỹ
trong kháng chiến 9 nǎm, nên đã kiềm chế và chặn đứng Mỹ đưa quân, kéo dài và
mở rộng chiến tranh xâm lược nước ta.

-----------------------------------------------------------------------------------------------------------Sinh viên thực hiện: Nguyễn Thị Xuân Lan
- 14

-


Tiểu luận Lịch sử Đảng

Giảng viên hướng dẫn: Thầy Trần Như Cương

Sau Hiệp định Giơnevơ (7-1954), đế quốc Mỹ lấn dần thực dân Pháp,
độc chiếm miền Nam nước ta, chúng thiết lập chế độ thực dân mới và dựng nên
chính quyền tay sai Ngơ Đình Diệm. Chế độ Mỹ - Diệm đàn áp dã man phong trào
đấu tranh của nhân dân ta ở miền Nam. Nhân dân ta không chịu khuất phục đã
vùng lên chống lại chúng, Đảng ta đã ra Nghị quyết 15 (1-1959) về cách mạng
miền Nam. Nghị quyết ra đời tuy có phần muộn, nhưng cũng đã kịp phát động
quần chúng đấu tranh, đi tới cao trào đồng khởi khắp miền Nam. Phong trào đồng
khởi đã đưa cách mạng miền Nam "từ thế giữ gìn lực lượng sang thế tiến công", là
sự sáng tạo cách mạng của nhân dân ta ở miền Nam, mở đâu cuộc chiến tranh cách
mạng từ thấp lên cao, vừa tầm, vừa sức của lực lượng cách mạng miền Nam mới
nổi dậy và đã kiềm chế được đế quốc Mỹ sớm đưa quân vào miền Nam, tránh
được những khó khǎn, bất lợi của cách mạng miền Nam trong buổi ban đầu.
1.2) Kiềm chế đế quốc Mỹ leo thang chiến tranh từng bước
Bước vào những nǎm 60, lực lượng so sánh trên thế giới nghiêng
hẳn về phía cách mạng và hịa bình. Khả nǎng ngǎn chặn chiến tranh thế giới ngày
càng nhiều. Chính sách "bên miệng hố chiến tranh" của Mỹ cùng chiến lược qn
sự mang tính chất phản cơng của chúng như "trấn áp ồ ạt", "trả miếng hàng loạt"
đã bị phá sản. Để thích ứng với tình hình, đế quốc Mỹ cho ra đời chiến lược qn
sự mới vừa có tính chất tiến cơng, vừa có tính chất phịng ngự. Đó là chiến lược
"phản ứng linh hoạt" với ba loại chiến tranh: "chiến tranh thế giới", "chiến tranh
cục bộ", và "chiến tranh đặc biệt".
Ở miền Nam nước ta từ khi có Phong trào Đồng khởi, đế quốc Mỹ đã
thực hiện "chiến tranh đặc biệt" nhằm ba mục đích:

dân

- Đàn áp phong trào giải phóng dân tộc, thực hiện chính sách thực
mới;
- Xây dựng cǎn cứ quân sự, chuẩn bị tiến công phe xã hội chủ

nghĩa;
- Ngǎn chặn chủ nghĩa xã hội lan xuống Đơng Nam á.
Thực hiện ba mục đích trên, đế quốc Mỹ muốn khắc phục những
mâu thuẫn đang tồn tại ở miền Nam Việt Nam: mâu thuẫn giữa dân tộc Việt Nam
với đế quốc Mỹ và bè lũ tay sai, mâu thuẫn giữa nông dân và địa chủ phong kiến,
mâu thuẫn giữa hệ thống xã hội chủ nghĩa với lực lượng đế quốc chủ nghĩa, và
mâu thuẫn giữa đế quốc Mỹ với các đế quốc khác, nhất là đế quốc Pháp.
Nhưng trên thực tế, Mỹ thực hiện "chiến tranh đặc biệt" chống lại
nhân dân ta lại càng làm sâu sắc những mâu thuẫn đó.

-----------------------------------------------------------------------------------------------------------Sinh viên thực hiện: Nguyễn Thị Xuân Lan
- 15
-


Tiểu luận Lịch sử Đảng

Giảng viên hướng dẫn: Thầy Trần Như Cương

Đảng ta chỉ ra rằng, cách mạng miền Nam đề ra nhiệm vụ chống đế
quốc xâm lược giành độc lập dân tộc, dân chủ và hồ bình trung lập là để chủ
động kiếm chế địch trong loại "chiến tranh đặc biệt" và tìm cách hồ hỗn mâu
thuẫn giữa lực lượng đế quốc chủ nghĩa với hệ thống xã hội chủ nghĩa trên vấn đề
miền Nam Việt Nam, tranh thủ giai cấp tư sản dân tộc ở miền Nam để chống đế

quốc Mỹ và tay sai, đồng thời tranh thủ sự đồng tình của các nước dân tộc chủ
nghĩa và khơi sâu mâu thuẫn giữa đế quốc Mỹ và đế quốc Pháp
Đảng ta khẳng định: Chúng ta cần phải và có khả nǎng kiềm chế và
thắng địch trong loại "chiến tranh đặc biệt". Bởi vì, khả nǎng này sẽ tǎng lên
nhiều, nếu chúng ta kiên quyết chống đế quốc Mỹ và tay sai, đồng thời có sách
lược khơn khéo biết lợi dụng hơn nữa mâu thuẫn trong nội bộ địch, giữa đế quốc
Mỹ và các đế quốc khác, nhất là đế quốc Pháp, giữa Mỹ và bọn tay sai ở miền
Nam với bọn tư bản cầm quyền ở Đông Nam á, do đó mà làm cho đế quốc Mỹ khó
sử dụng được lực lượng của khối xâm lược Đông Nam á để mở rộng chiến tranh ở
miền Nam. Mặt khác, chúng ta phải tranh thủ mở rộng phong trào chống đế quốc
Mỹ gây chiến và xâm lược, làm cho nhân dân thế giới, nhất là nhân dân các nước
xã hội chủ nghĩa, các dân tộc á, Phi và Mỹ latinh, ủng hộ cách mạng miền Nam
ngày càng sâu rộng và thiết thực hơn nữa.
Kiềm chế và thắng Mỹ trong "chiến tranh đặc biệt" là chúng ta đã
đẩy Mỹ vào thế bị động leo thang chiến tranh từng bước.
Nhân dân ta đã thực hiện xuất sắc tư tưởng chỉ đạo trên của Đảng Đó
là q trình nhân dân ta tiến hành ba mặt trận đấu tranh chính trị, đấu tranh quân
sự chống địch ở miền Nam và đấu tranh ngoại giao để cơ lập địch, tranh thủ sự
đồng tình và ủng hộ đối với ta trên trường quốc tế, mà đấu tranh chính trị và quân
sự ở miền Nam là cơ bản và đấu tranh ngoại giao là rất quan trọng. Thực hiện q
trình đó, nhân dân ta đã phá tan các hành động chiến tranh của Mỹ - ngụy và làm
phá sản các chiến thuật tân kỳ của chúng làm cho "chiến tranh đặc biệt" của đế
quốc Mỹ bị thất bại.
Mặt khác, đế quốc Mỹ xâm lược miền Nam Việt Nam là nhằm thực
hiện một khâu quan trọng trong chiến lược toàn cầu phản cách mạng của chúng,
nhằm thiết lập ở miền Nam chế độ thực dân mới. Tất cả các âm mưu, thủ đoạn
chính trị và quân sự của Mỹ đêu nhằm mục đích đó. Do vậy, Mỹ thực hiện "chiến
tranh đặc biệt", hay trước thất bại nặng nề mà liều lĩnh tiến hành "chiến tranh cục
bộ" ở miền Nam và chiến tranh phá hoại miền Bắc bằng không qn và hải qn
cũng đều nhằm mục đích đó. Mỹ khơng thể liều lĩnh đến mức có thể gây phương

hại đến chiến lược toàn cầu phản cách mạng của chúng. Điều đó địi hỏi Mỹ phải
có thời gian để xây dựng ngụy quân, ngụy quyền làm công cụ thực hiện chủ nghĩa
thực dân mới của chúng, đánh phá lực lượng cách mạng miền Nam bằng những
-----------------------------------------------------------------------------------------------------------Sinh viên thực hiện: Nguyễn Thị Xuân Lan
- 16
-


Tiểu luận Lịch sử Đảng

Giảng viên hướng dẫn: Thầy Trần Như Cương

thủ đoạn thâm độc, xảo quyệt hơn. Do vậy, Mỹ buộc phải thực hiện chính sách leo
thang chiến tranh từng bước.
1.3) Kiềm chế chiến lược "chiến tranh cục bộ" của đế quốc Mỹ trên
phạm vi chiến trường miền Nam

Giữa nǎm 1965, chiến lược "chiến tranh đặc biệt" của Mỹ hồn tồn
phá sản, tổng thống Mỹ Giơnxơn đã tun bố đưa quân viễn chinh Mỹ và quân các
nước chư hầu vào trực tiếp tham chiến ở miền Nam, thực hiện "chiến tranh cục
bộ" và tǎng cường đánh phá miền Bắc bằng khơng qn và hải qn.
Trước tình hình đó, Đảng ta đã nhận định: trong khi chiến lược quân
sự của địch đã có sự thay đổi và đã vượt khỏi khn khổ của "chiến tranh đặc biệt"
thì mục đích chính trị của đế quốc Mỹ. ở miền Nam vẫn là tiếp tục thực hiện chính
sách thực dân kiểu mới, tính chất cơ bản của cuộc chiến tranh của Mỹ ở miền Nam
vẫn là chiến tranh xâm lược thực dân kiểu mới. Đế quốc Mỹ đưa quân đội viễn
chinh vào, miền Nam không những để tǎng cường hoạt động quân sự và còn để
tạo điều kiện ổn định ngụy quyền, ra sức xây dựng lực lượng tay sai của chúng về
mọi mặt, tức là chúng cố dựng cho được chế độ thực dân kiểu mới của chúng ở
miền Nam.

Đảng ta phân tích các mối quan hệ giữa Mỹ và các nước, các khu
vực trên thế giới: rõ ràng là tình hình chung trên thế giới hiện nay cũng như tình
hình riêng của nước Mỹ không cho phép sử dụng hết sức mạnh về kinh tế và quân
sự của chúng trong cuộc chiến tranh xâm lược ở Việt Nam.
Mỹ thua trong "chiến tranh đặc biệt", buộc phải đưa quân viễn chinh
và chư hầu vào miền Nam mở rộng chiến tranh, chúng đã mắc sai lầm đánh giá
quá thấp lực lượng của ta.
Chúng tính, với "chiến tranh cục bộ" sẽ thay đổi thế bị động của
chúng thành thế chủ động và đẩy lực lượng cách mạng từ thế chủ động, thế thắng
thành thế bị động và bị tiêu diệt.
Phân tích tồn diện thế và lực cách mạng cả nước ta lúc này, Đảng ta
kết luận: mặc dù đế quốc Mỹ đưa vào miền Nam hàng chục vạn quân viễn chinh,
lực lượng so sánh giữa ta và địch vẫn không thay đổi lớn. Tuy cuộc chiến tranh
ngày càng trở nên gay go, ác liệt, nhưng nhân dân ta đã có cơ sở chắc chắn để giữ
vững và tiếp tục giành thế chủ động trên chiến trường, có lực lượng và điều kiện
đánh bại âm mưu trước mất và lâu dài của địch.
-----------------------------------------------------------------------------------------------------------Sinh viên thực hiện: Nguyễn Thị Xuân Lan
- 17
-


Tiểu luận Lịch sử Đảng

Giảng viên hướng dẫn: Thầy Trần Như Cương

Đế quốc Mỹ ra sức lợi dụng sự bất đông giữa Liên Xô và Trung
Quốc để leo thang chiến tranh chống Việt Nam, nhưng cũng chỉ có giới hạn. Vì
với cách mạng Việt Nam, Liên Xơ, Trung Quốc và các nước xã hội chủ nghĩa
khác lúc này vẫn hết lịng ủng hộ và chi viện có hiệu quả. Đồng thời, phong trào
độc lập dân tộc, hồ bình, cùng những nhà hoạt động chính trị - xã hội nổi tiếng

trên thế giới, đã hình thành trong thực tế mặt trận nhân dân thế giới ủng hộ Việt
Nam kháng chiến chống Mỹ cứu nước.
Như vậy, Đảng ta đánh giá đúng việc Mỹ đưa hàng chục vạn quân
vào miền Nam, mở rộng chiến tranh phá hoại miền Bắc, đánh giá đúng lực lượng
và khả nǎng của địch, đồng thời đánh giá đúng lực lượng và khả nǎng to lớn của
nhân dân ta ở cả hai miền và các điều kiện quốc tế. Trên cơ sở đó, Đảng đã xác
định quyết tâm chiến lược đúng đắn là: tập trung lực lượng cả nước, kiên quyết
đánh địch và thắng địch trong cuộc chiến tranh hạn chế đó. Chúng ta động viên
lực lượng cả nước đẩy mạnh cuộc chiến tranh giải phóng miền Nam, gây cho địch
nhiều tổn thất nặng nề, đẩy chúng ngày càng sa lầy và thất bại lớn, đi tới giành
thắng lợi quyết định ở miền Nam.
Tuy vậy, Đảng ta cũng chỉ ra là cần phải đề phòng đế quốc Mỹ liều
lĩnh mở rộng "chiến tranh cục bộ" ra cả miền Bắc, phải xây dựng và bố trí lực
lượng sẵn sàng đánh bại chúng ngay từ trận đầu nếu xảy ra.
Có đường lối đúng đắn lại được chỉ đạo thường xuyên và kịp thời
của Trung ương và các cấp đảng bộ, nhân dân ta ở cả hai miền Nam - Bắc đã phối
hợp nhịp nhàng trong chiến đấu và xây dựng lực lượng, đã làm thất bại tất cả các
kế hoạch quân sự của Mỹ - nguỵ, bẻ gẫy tất cả các cuộc phản cơng của địch, dồn
địch vào thế tiến thối lưỡng nan, trên cơ sở đó ta mở cuộc tiến công chiến lược
Xuân 1968, làm phá sản kế hoạch "chiến tranh cục bộ" của đế quốc Mỹ. Với thắng
lợi này, nhân dân ta đã giữ vững được thế thắng, kiềm chế và thắng địch trong
"chiến tranh cục bộ" của chúng trên chiến trường miền Nam.
2. Biết giành thắng lợi từng bước.
Chuyển cách mạng miền Nam từ thế giữ gìn lực lượng sang thế tiến công,
đánh thắng "chiến tranh đặc biệt" của Mỹ - ngụy
Tháng 11-1959, xứ uỷ Nam Bộ quán triệt Nghị quyết 15 của Trung ương.
Nghị quyết 15 đi vào cơ sở giữa lúc quần chúng đang sôi sục cǎm thù Mỹ - Diệm,
đã bùng lên thành phong trào đông khởi khắp miền Nam. Phong trào đông khởi đã
giáng một đòn bất ngờ vào chiến lược Aixenhao, làm thất bại một hình thức thống
trị điển hình của chủ nghĩa thực dân mới của đế quốc Mỹ. Đây là một mốc rất

quan trọng chuyển cách mạng miền Nam sang thế tiến công, làm thất bại kế hoạch
"chiến tranh đặc biệt" của Mỹ.
-----------------------------------------------------------------------------------------------------------Sinh viên thực hiện: Nguyễn Thị Xuân Lan
- 18
-


Tiểu luận Lịch sử Đảng

Giảng viên hướng dẫn: Thầy Trần Như Cương

Sau Đồng khởi, một vấn đề đặt ra là làm thế nào để giữ được thế làm chủ
của nhân dân. Tháng 1-1961, Bộ Chính trị họp và ra nghị quyết chỉ rõ hướng phát
triển của cách mạng miền Nam sau Đồng khởi là chuyển từ khởi nghĩa từng phần
sang chiến tranh cách mạng, kết hợp khởi nghĩa quần chúng với chiến tranh cách
mạng để đưa cách mạng tiến lên. Bộ Chính trị cũng chỉ rõ phương châm chiến
lược của cách mạng miền Nam sau Đồng khởi là: Đẩy mạnh hơn nữa đấu tranh
chính trị, đồng thời đẩy mạnh đấu tranh vũ trang lên song song với đấu tranh chính
trị, tấn công địch bằng cả hai mặt quân sự và chính trị. Bộ Chính trị khẳng định:
Cần phải ra sức xây dựng lực lượng vũ trang đủ mạnh để tiêu diệt nhiều sinh lực
địch.
Dưới ánh sáng chỉ đạo của Nghị quyết Bộ Chính trị, cách mạng miền Nam
đã phát triển và trưởng thành nhanh chóng. Một lực lượng lớn được đưa từ miền
Bắc vào cùng lực lượng tại chỗ tạo cho cách mạng miền Nam vững vàng cả về thế
và lực. Với thế và lực đó, với phương hướng tiến lên bằng cả lực lượng chính trị
và quân sự, bằng sự kết hợp cả hai hình thức đấu tranh chính trị và quân sự, nhân
dân ta ở miền Nam đã liên tục tiến công địch, làm phá sản kế hoạch Xtalây Taylơ
nhằm bình định miền Nam trong vịng 18 tháng (1961-1962) và kế hoạch Giơnxơn
- Mắcnamara cùng mục đích trên thực hiện trong hai nǎm (1964-1965). Đây là quá
trình nhân dân miền Nam đánh bại "chiến tranh đặc biệt" của Mỹ - nguy.

Những chiến thắng vang dội và có ý nghĩa bước ngoặt như chiến thắng ấp
Bắc (2-1-1963), chiến thắng Bình Giã (12-1964), chứng tỏ sự trưởng thành tồn
diện của lực lượng cách mạng, khẳng định thế tất thắng của nhân dân ta, mở ra
phong trào thi đua diệt nguy, diệt Mỹ khắp miền Nam. Đến giữa nǎm 1965, quân
nguỵ bị đánh tan vỡ từng mảng, ngụy quyền khủng hoảng triển miên, quốc sách
"ấp chiến lược" bị phá sản, "chiến tranh đặc biệt" của Mỹ - ngụy bị thất bại.
Giữ vững thế thắng, thế tiến còng, quyết chiến quyết thắng đế quốc Mỹ leo
thang chiến tranh.
"Chiến tranh đặc biệt" của đế quốc Mỹ bị đánh bại. Với bản chất hiếu chiến
và ngoan cố theo đuổi chiến lược toàn cầu phản cách mạng, đế quốc Mỹ đã leo
thang chiến tranh, tiến hành "chiến tranh cục bộ" ở miền Nam và đánh phá miền
Bắc bằng không quân và hải quân ác lệt hơn. Đây là một thử thách quyết liệt có
tính chất quyết định thắng bại với cả hai bên tham chiến.
Trước chiều hướng đó, tháng 3-1965, Trung ương Đảng đã họp Hội nghị
lần thứ 11. Trên cơ sở phân tích hết sức khách quan các yếu tố của cuộc chiến
tranh, Hội nghị đã nhận định: Mỹ sẽ mở rộng chiến tranh, đưa quân vào miền Nam
thực hiện "chiến tranh cục bộ" và tiến hành chiến tranh phá hoại miền Bắc thường
xuyên và ác liệt hơn. Trung ương Đảng hạ quyết tâm: quyết thắng địch ở mức cao
nhất trong "chiến tranh đặc biệt" ở miền Nam và chiến tranh phá hoại ở miền Bắc.
-----------------------------------------------------------------------------------------------------------Sinh viên thực hiện: Nguyễn Thị Xuân Lan
- 19
-


Tiểu luận Lịch sử Đảng

Giảng viên hướng dẫn: Thầy Trần Như Cương

Chuẩn bị sẵn sàng đánh thắng địch nếu chúng biến chiến tranh ở miền Nam
thành "chiến tranh cục bộ" và kể cả khi chúng mở rộng "chiến tranh cục bộ" ra hai

miền Nam - Bắc nước ta.
Đây là một dự đốn rất đúng đắn và kịp thời.
Tháng 5-1965, Giơnxơn tuyên bố đưa quân Mỹ vào trực tiếp tham chiến ở
miền Nam. Tháng 9-1965, Bộ Chính trị họp và tháng 12-1965, Trung ương Đảng
họp Hội nghị lần thứ 12 bàn về cách mạng miền Nam đã nhận định: Cuộc chiến
tranh xâm lược của đế quốc Mỹ ở miền Nam đã từ "chiến tranh đặc biệt" chuyển
thành "chiến tranh cục bộ", song về tính chất và mục đích vẫn là nhằm thực hiện
chủ nghĩa thực dân mới. Hội nghị đã phân tích rõ chỗ mạnh, chỗ yếu của địch, đề
ra phương châm chiến lược của chiến tranh giải phóng miền Nam và những hình
thức, biện pháp cụ thể để đánh thắng cả lực lượng Mỹ và nguỵ. Một lần nữa, Đảng
ta hạ quyết tâm: quyết chiến và quyết thắng đế quốc Mỹ leo thang chiến tranh.
Phải đánh phủ đầu quân Mỹ ngay khi chúng vừa vào miền Nam. Tháng 5-1965,
khi quân Mỹ gồm đủ các quân binh chủng hùng hổ kéo vào miền Nam thì tại cǎn
cứ Núi Thành, một đại đội thuộc bộ đội tỉnh Quảng Nam đã tập kích tiêu diệt gọn
một đại đội lính thủy đánh bộ Mỹ, 180 tên chết và bị thương. Đây là trận đầu tiên
lực lượng vũ trang cách mạng giáp chiến tiêu diệt gọn một đại đội lính Mỹ ở miền
Nam. Qua trận Núi Thành, ta hiểu rõ mặt mạnh, mặt yếu của quân Mỹ trên thực tế,
và khẳng định ta đánh được Mỹ. Tiếp trận Núi Thành là chiến thắng Vạn Tường,
Plâyme... là những trận phủ đầu nặng nề đối với quân Mỹ. Phong trào thi đua diệt
Mỹ nở rộ khắp miền Nam. Ngay nǎm 1965, nǎm đầu quân Mỹ tham chiến ở miền
Nam, ta đã tiêu diệt 20 vạn quân Mỹ - ngụy. Khí thế chiến thắng này đã tạo đà cho
quân dân ta ở miền Nam đánh bại hai cuộc phản công chiến lược của Mỹ vào hai
mùa khô 1965-1966 và 1966-1967. Với cuộc phản công chiến lược mùa khô 19661967 thì sự cố gắng cùng sự thất bại của Mỹ đã đến độ cao, bộ mặt xâm lược tàn
bạo của chúng đã lộ rõ trước dư luận thế giới, xã hội Mỹ khủng hoảng sâu sắc,
chính giới Mỹ phân hoá và mâu thuẫn gay gắt. ở miền Nam, đế quốc Mỹ lâm vào
thế thua, thế bị động và khó khǎn; ngược lại, ta đang ở thế thắng, thế chủ động và
thuận lợi. Tình hình đó cho phép ta chuyển cuộc chiến tranh cách mạng sang một
thời kỳ mới. Quân và dân ta ở miền Nam đã thực hiện bước chuyển đó bằng cuộc
tổng tiến cơng và nổi dậy đồng loạt khắp nông thôn và thành thị miền Nam vào
đầu Xuân 1968. Đây là đòn quyết định đánh bại "chiến tranh cục bộ" của đế quốc

Mỹ, buộc chúng phải từng bước xuống thang chiến tranh và đi vào chiều hướng
kết thúc cuộc chiến. Tuy vậy, trong bản anh hùng ca Xuân 1968, Đảng ta mắc sai
lầm chủ quan, nóng vội, muốn kết thúc chiến tranh khi điều kiện chưa đủ. Bởi vậy,
đợt tổng tiến công nổi dậy đầu tiên ta giành thắng lợi vang dội, nhưng các đợt sau
ta bị tổn thất nặng nề, làm chậm lại sự phát triển theo chiều hướng trên của cuộc
chiến mà thắng lợi thuộc về ta đã rõ.
-----------------------------------------------------------------------------------------------------------Sinh viên thực hiện: Nguyễn Thị Xuân Lan
- 20
-


Tiểu luận Lịch sử Đảng

Giảng viên hướng dẫn: Thầy Trần Như Cương

Kết hợp đấu tranh quân sự, chính trị và ngoại giao giành thắng lợi quyết
định
Phải xuống thang chiến tranh, nhưng đế quốc Mỹ lại thực hiện cái gọi là
học thuyết Níchxơn bằng chiến lược "Việt Nam hố chiến tranh" hịng kéo dài
chiến tranh, duy trì chủ nghĩa thực dân mới ở miền Nam. Chúng đổ tiền của vào
cố xây dựng cho được ngụy quyền và ngụy quân làm xương sống cho "Việt Nam
hoá chiến tranh". Mỹ thực hiện ở miền Nam một lúc ba loại chiến tranh: giành
dân, bóp nghẹt và huỷ diệt tàn khốc hơn bất kỳ thời kỳ nào trước đó, đồng thời
thực hiện ngoại giao xảo quyệt để cản phá ta giành thắng lợi hoàn toàn.
Tháng 1- 1970, Trung ương Đảng ta họp Hội nghị lần thứ 18, Hội nghị đã
phân tích sâu sắc tính chất thâm độc của chiến lược "Việt Nam hoá" và những mâu
thuẫn khơng thể khắc phục được của nó. Trên cơ sở đó, Hội nghị đề ra nhiệm vụ
trước mắt cho cách mạng miền Nam là ra sức xây dựng lực lượng qn sự và
chính trị, đẩy mạnh tiến cơng qn sự, chính trị và ngoại giao làm thất bại âm mưu
"Việt Nam hoá chiến tranh" của đế quốc Mỹ.

Quân và dân ta đã thực hiện xuất sắc những nhiệm vụ trên và đã giành
thắng lợi quyết định. Tận dụng sai lầm của Mỹ mở rộng chiến tranh sang
Campuchia, tháng 4-1970, Hội nghị cấp cao Đơng Dương đã họp, hình thành mặt
trận thống nhất nhân dân Đơng Dương đồn kết chống Mỹ, củng cố vững chắc thế
liên hồn Đơng Dương là một chiến trường, phối hợp chặt chẽ với Mặt trận nhân
dân thế giới ủng hộ ba nước Đông Dương chống Mỹ xâm lược. Mặt trận ngoại
giao đã chủ động và phối hợp chặt chẽ với đấu tranh quân sự và chính trị, liên tục
tiến cơng đế quốc Mỹ tại Hội nghị Pari và trước dư luận toàn thế giới. Mũi tiến
công quân sự đã giành thắng lợi rực rỡ, thực sự làm địn xeo cho mũi tiến cơng
chính trị và ngoại giao. Nǎm 1969-1971, ta phối hợp với quân dân Lào và
Campuchia giành thắng lợi lớn ở XǎmThông - Loong Chẹng, Cánh Đồng Chum
trên chiến trường Lào và giải phóng phần lớn đất đai cùng 4,5 triệu dân ở
Campuchia, chiến thắng đường số 9 -Nam Lào đã mở ra khả nǎng thực tế làm thất
bại chiến lược "Việt Nam hoá chiến tranh" của Níchxơn.
Ngày 30-3-1972, ta mở cuộc tiến cơng chiến lược ở miền Nam với
quy mô lớn, cường độ mạnh, với đủ các binh chủng tác chiến hợp đồng và kéo dài
suốt nǎm 1972. Bị thất bại nặng, Mỹ đã "Mỹ hố" trở lại cuộc chiến tranh, thả mìn
các cửa sông, cửa biển và ném bom trở lại miền Bắc, đồng thời thực hiện chính
sách ngoại giao xảo quyệt hòng ngǎn cản thắng lợi của ta. Mỹ lật lọng tại Hội nghị
Pari và tháng 12-1972, chúng mở cuộc tập kích chiến lược bằng máy bay B.52 vào
Hà Nội, Hải Phòng suốt 12 ngày đêm. Nhưng cũng như ở miền Nam, cuộc tập
kích này của Mỹ đã thất bại nặng nề. Đúng như Đại hội IV của Đảng ta (12-1976)
đã nhận định: "Thắng lợi to lớn của cuộc tiến công chiến lược nǎm 1972 và chiến
công xuất sắc của quân và dân ta đập tan cuộc tập kích chiến lược bằng máy bay
-----------------------------------------------------------------------------------------------------------Sinh viên thực hiện: Nguyễn Thị Xuân Lan
- 21
-


Tiểu luận Lịch sử Đảng


Giảng viên hướng dẫn: Thầy Trần Như Cương

B. 52 vào Hà Nội, Hải Phòng, cuối cùng đã buộc đế quốc Mỹ phải ký kết Hiệp
định Pari về Việt Nam, rút hết quân Mỹ và quân chư hầu ra khỏi nước ta". Ta đã
giành thắng lợi quyết định với đế quốc Mỹ.
Từ thắng lợi quyết định tiến lên giành thắng lợi hoàn toàn .
Phải ký Hiệp định Pari, rút quân về nước nhưng đế quốc Mỹ vẫn
ngoan cố tiếp tục dùng ngụy quyền Sài Gịn làm cơng cụ thực hiện chủ nghĩa thực
dân mới của chúng ở miền Nam, biến miền Nam thành một "quốc gia" thân Mỹ,
xố bỏ chính quyền cách mạng.
Sau Hiệp định Pari, ở miền Nam chưa có ngừng bắn hồn tồn, chưa
có hồ bình thật sự, Mỹ - ngụy vẫn tiến hành bình định và lấn chiếm khắp miền
Nam.
Tháng 7-1973, Trung ương Đảng đã kịp thời họp Hội nghị lần thứ 21,
phân tích rõ tình hình trên, âm mưu và hành động phá hoại Hiệp định Pari của Mỹ
- nguỵ. Hội nghị cũng chỉ ra điểm mạnh, điểm yếu của địch.
Hội nghị nhận định thế và lực của cách mạng miền Nam hiện mạnh
hơn bất cứ thời kỳ nào kể từ nǎm 1954 đến đó. Nhưng ta cũng cịn nhiều mặt cần
nhanh chóng khắc phục, nhất là đấu tranh quân sự, chính trị, binh vận và xây dựng
lực lượng phát triển chưa đều từ sau Hiệp định Pari. Hội nghị khẳng định nhiệm
vụ cơ bản của cách mạng miền Nam lúc này là: tiếp tục thực hiện chiến lược cách
mạng dân tộc dân chủ nhân dân, đánh đổ ngụy quyền, làm thất bại hoàn toàn chủ
nghĩa thực dân mới của Mỹ. Phương pháp cách mạng bạo lực là nhất quán cả quá
trình cách mạng miền Nam đi tới giành thắng lợi hoàn toàn.
Nghị quyết 21 của Trung ương giúp các đảng bộ miền Nam kịp thời
nhận thức và khắc phục những thiếu sót, lệch lạc từ sau Hiệp định Pari. Nhờ vậy,
tình hình chiến trường miền Nam có những chuyển biến tích cực và nhanh chóng.
Đầu nǎm 1974, về cơ bản ta đã thu hồi được các vùng giải phóng và vùng tranh
chấp bị địch lấn chiếm từ sau Hiệp định Pari và giải phóng thêm được gần nửa

triệu dân. Từ giữa nǎm 1974, những điều kiện cho việc giải phóng hồn tồn miền
Nam đang chín muồi.
Tháng 10 - 1974, Bộ Chính trị họp đề ra kế hoạch giải phóng miền
Nam trong 2 nǎm (1975-1976). Sau đó Bộ Chính trị làm việc với các đồng chí
lãnh đạo và chỉ huy các chiến trường miền Nam. Tháng 1-1975, Bộ Chính trị nhận
định: "Chưa bao giờ ta có điều kiện đầy đủ về quân sự, chính trị như hiện nay, có
thời cơ chiến lược to lớn, thuận lợi như hiện nay để hoàn thành cách mạng dân tộc
dân chủ nhân dân ở miền Nam, tiến tới hồ bình thống nhất Tổ quốc".
-----------------------------------------------------------------------------------------------------------Sinh viên thực hiện: Nguyễn Thị Xuân Lan
- 22
-


Tiểu luận Lịch sử Đảng

Giảng viên hướng dẫn: Thầy Trần Như Cương

Bộ Chính trị và Quân uỷ Trung ương quyết định lấy chiến trường
Tây Nguyên và Buôn Ma Thuột làm chiến trường và điểm mở đầu cho kế hoạch
giải phóng hồn tồn miền Nam. Bộ Chính trị theo dõi chặt chẽ và chỉ đạo kịp thời
các bước tiến quân giành thắng lợi ở các chiến trường miền Nam.
Chiến dịch giải phóng Tây Nguyên (từ ngày 10 đến 20-3-1975) đã
điểm trúng huyệt vào Buôn Ma Thuột, làm rung chuyển hệ thống bố trí chiến lược
của qn ngụy Sài Gịn, ngụy quyền hốt hoảng cho rút quân chiến lược khỏi Tây
Nguyên, làm rối loạn qn ngujy. Ta giải phóng hồn tồn Tây Nguyên.
Chiến dịch giải phóng Huế - Đà Nẵng (từ ngày 21 đến 29-3-1975) đã
phá tan âm mưu co cụm về giữ đồng bằng ven biển miền Trung của địch, đẩy địch
lún sâu hơn nữa vào thế suy sụp, tan vỡ không sao cứu vãn nổi, làm xuất hiện thời
cơ tổng tiến công và nổi dậy vào sào huyệt cuối cùng của địch: Chiến dịch giải
phóng Sài Gịn và Nam Bộ - Chiến dịch Hồ Chí Minh (từ ngày 26 đến 30-4-1975).

17 giờ ngày 26-4-1975, nǎm quân đoàn của ta mở cuộc tổng tiến cơng vào Sài
Gịn - Gia Định, 11 giờ ngày 30-4-1975, quân ta chiếm dinh tổng thống ngy, buộc
ngụy quyền Sài Gịn đầu hàng vơ điều kiện. Sự nghiệp giải phóng hồn tồn miền
Nam của nhân dân ta toàn thắng.
3. Sáng tạo nhiều cách đánh, cách thắng đế quốc Mỹ
Đánh thắng đế quốc Mỹ bằng phương pháp cách mạng bạo lực của quần
chúng.
Đây là phương pháp nhất quán của Đảng ta suốt quá trình cách mạng dân
tộc dân chủ nhân dân. Nó khơng ngừng được bổ sung và hồn thiện trong q
trình cách mạng.
Nghị quyết 15 của Trung ương đã chỉ rõ: "Ngoài con đường cách mạng,
nhân dân miền Nam khơng có con đường nào khác để tự giải phóng khỏi xiềng
xích nơ lệ", "con đường đó là lấy sức mạnh của quần chúng, dựa vào lực lượng
chính trị của quần chúng là chủ yếu, kết hợp với lực lượng vũ trang để đánh đổ
quyền thống trị của đế quốc và phong kiến, dựng nên chính quyền cách mạng của
nhân dân".
Vào bước cuối cùng của cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước, Hội nghị
trung ương lần thứ 21 lại khẳng định: tư tưởng cách mạng bạo lực là thống nhất
của cả quá trình cách mạng miền Nam. Chiến thắng 30-4-1975 chứng minh tính
đúng đắn, sáng tạo của phương pháp cách mạng bạo lực của Đảng ta.
Bạo lực cách mạng trong cách mạng Việt Nam có lực lượng chính trị và
lực lượng vũ trang, với hai hình thức đấu tranh chính trị và đấu tranh quân sự và
-----------------------------------------------------------------------------------------------------------Sinh viên thực hiện: Nguyễn Thị Xuân Lan
- 23
-


Tiểu luận Lịch sử Đảng

Giảng viên hướng dẫn: Thầy Trần Như Cương


sự kết hợp đấu tranh chính trị với quân sự. Quá trình thực hiện bạo lực cách mạng,
nhân dân ta thể hiện sinh động sự kết hợp chặt chẽ giữa ý chí giành độc lập dân
tộc với phương pháp cách mạng đúng đắn.
Ý chí giành cho được độc lập tự do, thống nhất Tổ quốc là truyền thống
thiêng liêng của cả dân tộc ta, là mục tiêu hàng đầu của sự nghiệp cách mạng do
Đảng ta lãnh đạo. ý chí đó đã được Chủ tịch Hồ Chí Minh kính yêu khẳng định khi
cả dân tộc đứng lên làm Cách mạng tháng Tám 1945: Dù phải đốt cháy dãy
Trường Sơn cũng phải giành cho được độc lập, tự do. 21 nǎm sau, khi cuộc kháng
chiến chống Mỹ ở thời điểm quyết liệt nhất, Người lại nói: Khơng có gì q hơn
độc lập tự do.
Để giữ vững và thực hiện được ý chí dó, suốt 21 nǎm lãnh đạo kháng
chiến chống Mỹ, Đảng ta đã vận dụng những giải pháp hết sức mềm dẻo và khơn
khéo về chính trị, qn sự, ngoại giao. Do đó, trong kháng chiến chống Mỹ cứu
nước. Đảng ta đã giữ vững được tính độc lập sáng tạo về đường lối cách mạng, đã
lãnh đạo tiến hành chiến tranh cách mạng thắng lợi, đồng thời góp phần cùng nhân
dân các nước bảo vệ hồ bình thế giới. Một nước nhỏ, dân số khơng đơng, kinh tế
cịn kém phát triển đã liên tục đánh bại các chiến lược chiến tranh của đế quốc
Mỹ, làm thất bại hoàn toàn chủ nghĩa thực dân mới của Mỹ ở Việt Nam.
Từ khởi nghĩa quần chúng chuyển sang tiến hành chiến tranh cách mạng
và kết hợp khởi nghĩa quần chúng với chiến tranh cách mạng .
Đây là phương pháp nổi bật trong kháng chiến chống Mỹ của nhân dân ta
ở miền Nam được Đảng ta tổng kết và chỉ ra là hướng đi lên của cách mạng miền
Nam sau Phong trào Đồng khởi (1960). Bằng cách thức đó, lực lượng cách mạng
miền Nam đã đánh bại "chiến tranh đặc biệt" của Mỹ - ngụy, và đã phát triển cao ở
các thời kỳ tiếp theo, thể hiện hết sức phong phú, sinh động trong đấu tranh chính
trị, quân sự và kết hợp giữa hai hình thức đấu tranh chính trị và qn sự. Về sau lại
được kết hợp với hình thức đấu tranh ngoại giao.
Cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước sáng ngời chính nghĩa, đó là ưu thế
chính trị rất lớn của ta, cũng là điểm yếu cǎn bản của Mỹ - ngụy. Đảng và nhân

dân ta đã biết phát huy ưu thế này mà liên tục tiến công địch trên mặt trận chính
trị, những "đội qn tóc dài", học sinh, sinh viên, giáo phái... đã tiến công chủ
nghĩa thực dân mới bằng chính những luận điệu mị dân của chúng. Đấu tranh
chính trị kết hợp chặt chẽ với đấu tranh ngoại giao đã tố cáo tội ác của đế quốc Mỹ
trước nhân dân tồn thế giới, hình thành ba tầng mặt trận: trong nước, Đông
Dương và thế giới, cùng tiến công đế quốc Mỹ và bọn tay sai.
Từ thực hiện chiến tranh cách mạng chống lại chiến tranh thực dân mới,
đồng thời cũng là làm chiến tranh giải phóng, tất yếu phải xây dựng được lực
-----------------------------------------------------------------------------------------------------------Sinh viên thực hiện: Nguyễn Thị Xuân Lan
- 24
-


Tiểu luận Lịch sử Đảng

Giảng viên hướng dẫn: Thầy Trần Như Cương

lượng quân sự và đấu tranh quân sự mạnh. Thực tiễn kháng chiến chống Mỹ cho
ta thấy khơng có lực lượng quân sự và đấu tranh quân sự mạnh thì khó lịng đẩy
mạnh các mặt đấu tranh chính trị và ngoại giao và khơng thể có thắng lợi triệt để
như mùa Xuân 1975.
Mặt trận ngoại giao của ta đã phát huy tính chủ động liên tục tiến cơng
địch, đồng thời phối hợp chặt chẽ, nhịp nhàng với mặt trận chính trị và quân sự tạo
thành sức mạnh tổng hợp đánh bại kẻ thù. Đây là một nét đặc sắc trong lãnh đạo
kháng chiến chống Mỹ cứu nước của Đảng ta.
Đánh thắng quân viễn chinh Mỹ bằng thế trận chiến tranh nhân dân rộng
khắp.
Phát động chiến tranh nhân dân chống lại các thế lực xâm lược là truyền thống của
dân tộc ta và cũng là đường lối nhất quán suốt 30 nǎm lãnh đạo chiến tranh của
Đảng ta chống lại hai đế quốc to là Pháp và Mỹ. Trong kháng chiến chống Mỹ cứu

nước, chiến tranh nhân dân của ta phát triển tới đỉnh cao. Tiến hành cuộc chiến
tranh nhân dân, Đảng ta đã chỉ đạo xây dựng lực lượng vũ trang nhân dân gồm ba
thứ quân. Nhờ vậy, tuy quân số ta không đông, nhưng lực lượng vũ trang của ta
được huy động và bố trí chiến lược đồng đều và rộng khắp, địch ở đâu cũng có thể
bị tiến công.
Nét đặc trưng của chiến tranh nhân dân Việt Nam là cách đánh địch không
chỉ ở ba thứ quân trong lực lượng vũ trang, mà bất cứ ai từ già đến trẻ đều có thể
góp sức mình tiến cơng giặc, góp phần giải phóng quê hương. Cách đánh sở
trường, rộng khắp là đánh du kích. Bằng cách đánh này, mà vũ khí thơ sơ của ta đã
nhiều lần làm cho kẻ thù có vũ khí hiện đại phải chấp nhận thất bại. Kết hợp đánh
du kích và đánh chính quy, đã phát huy sức mạnh tổng hợp của tất cả các lực
lượng vũ trang và sức mạnh của toàn dân đánh giặc.
Hình thức tác chiến trong chiến tranh nhân dân của ta vô cùng phong phú,
đánh nhỏ, đánh vừa, đánh lớn và sự kết hợp các quy mô tác chiến đó trong từng
chiến dịch một cách linh hoạt và sáng tạo, làm cho kẻ địch không thể lường hết
được các mũi tiến công của ta.
Chiến tranh nhân dân của ta tiến cơng địch cả bằng qn sự, chính trị và
binh vận, và sự phối hợp nhịp nhàng giữa các hình thức này, nâng cao hiệu quả
chiến đấu của ta lên rất cao.
Cả ba vùng miền núi, đồng bằng và đơ thị đều có những hình thức tiến
cơng địch phù hợp là nét đặc sắc trong chiến tranh nhân dân của ta. Miền núi lấy
tiến công quân sự là chủ yếu; vùng nông thôn đồng bằng tiến công cả quân sự và
chính trị, và kết hợp hai hình thức đó; ở các đơ thị ta tiến cơng địch bằng chính trị
-----------------------------------------------------------------------------------------------------------Sinh viên thực hiện: Nguyễn Thị Xuân Lan
- 25
-


×