Tải bản đầy đủ (.pdf) (5 trang)

Nhân vật Thuý Kiều trong đoạn kết Truyện Kiều nhìn theo quan điểm văn hoá giới thời trung đại_1 ppsx

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (170.57 KB, 5 trang )

Nhân vật Thuý Kiều trong đoạn
kết Truyện Kiều nhìn theo quan
điểm văn hoá giới thời trung đại






Theo chúng tôi, về phương pháp đánh giá và lý giải ứng xử của Thuý Kiều trong
đoạn kết này, cần chú ý đến một sự việc hiển nhiên rằng nàng Kiều là một người phụ nữ.
Khái niệm “giới” sử dụng ở đây có nghĩa là “giới tính”. Và ứng xử của nàng ở đoạn kết
lại cần được nhìn trong chuỗi các ứng xử của nàng Kiều với tư cách là một người phụ nữ
trong quan hệ với nam giới ở toàn bộ tác phẩm Truyện Kiều.
Biểu hiện đặc trưng đầu tiên cho vị thế người phụ nữ trong quan hệ với nam giới là
sự kiện Kiều tương tư quá “vắn tắt” so với Kim Trọng tương tư về Kiều sau cuộc hạnh
ngộ của hai người giữa buổi chiều xuân trong hội đạp thanh. Nếu so sánh thuần tuý về số
lượng câu thơ, dễ thấy Nguyễn Du chỉ dành cho Thuý Kiều 2 câu thơ nghĩ về chàng
Kim Người đâu gặp gỡ làm chi/ Trăm năm biết có duyên gì hay không. Trong khi đó,
Nguyễn Du dành cho nỗi tương tư của chàng Kim tới 28 câu thơ, từ câu 243 đến câu 270:
Cho hay là thói hữu tình,
Đố ai dứt mối tơ mành cho xong.
Chàng Kim từ lại thư song,
Nỗi nàng canh cánh bên lòng biếng khuây
Lơ thơ tơ liễu buông màng,
Con oanh học nói trên cành mỉa mai.
Đấy là chưa nói nếu phân tích nội dung cảm xúc tương tư thì thấy Kim Trọng chủ
động và mãnh liệt hơn nhiều. Qua đây có thể nói, trong quan hệ nam nữ thời xưa, nam
giới đóng vai trò chủ động và nữ giới chỉ đóng vai trò bị động. Nguyễn Du đã tôn trọng sự
thực này. Rất có thể trên thực tế, trong đáy sâu tâm hồn một người con gái có những xao
xuyến đầu đời mãnh liệt hơn, song sự thể hiện ra bên ngoài lại chỉ có chừng mực nhất


định.
Trong cái đêm cả nhà còn lưu lại ăn tiệc bên ngoại, nàng Kiều đã Xăm xăm băng
lối vườn khuya một mình đến với Kim Trọng. Đọc lại văn bản, ta thấy dường như chính
Kim Trọng cũng thấy ngỡ ngàng: có thể nào tin được rằng trong đêm tối, một người
con gái lại chủ động đến với mình? Như đã lường trước được sự ngỡ ngàng ấy, Kiều
phải vội vã lý giải cho Kim Trọng rằng “cuộc viếng thăm” bất ngờ này không chỉ vì
tình yêu mà chủ yếu là vì linh cảm về sự mong manh của tình yêu. Thuý Kiều muốn có
một sự bảo đảm vững chắc cho tình yêu, và Kim Trọng đã cùng nàng thề nguyền dưới
vầng trăng thiêng liêng. Dường như để tái xác nhận tính chất chính đáng của cuộc
thăm, Thuý Kiều đã từ chối một cách có tình có lý khi chàng Kim tỏ ra lả lơi. Kiều đã
viện dẫn ra những câu chuyện lịch sử ở đó, nếu có chuyện quan hệ nam nữ thì phần
thiệt thòi chỉ có riêng người con gái gánh chịu (câu chuyện về lứa đôi Thôi Oanh
Oanh  Trương Quân Thuỵ). So sánh hành động, ngôn ngữ của nàng và của Kim
Trọng, dễ thấy chỉ có riêng người phụ nữ chịu áp lực của quan niệm đạo đức, trinh tiết,
còn người đàn ông lại tự do trước áp lực này. Nói khác đi, áp lực của xã hội nam quyền
đã có sức ám ảnh và chi phối thực tế và khá mạnh mẽ đến suy nghĩ và hành động của
Thuý Kiều.
Một sự kiện khác cũng rất đặc trưng là mối quan hệ tay ba Thuý
Kiều  Hoạn Thư  Thúc Sinh. Dễ thấy là tuy trong mối quan hệ đó, Thúc Sinh có một
trách nhiệm không thể chối cãi: chính chàng đã chuộc Thuý Kiều ra khỏi lầu xanh, đã
sống với Kiều, và bằng những việc làm này, chính Thúc Sinh đã khởi động cái nguyên
nhân dẫn đến việc đánh ghen thâm thuý của Hoạn Thư và rồi từ cuộc đánh ghen ấy sẽ dẫn
đến phiên toà công lý, nơi đó Thuý Kiều sẽ có ý đồ trả thù Hoạn Thư rất quyết liệt. Nhưng
rồi ta thấy, người đàn ông Thúc Sinh đã vô can trong khi hai người phụ nữ dồn cơn ghen
vào tình địch. Hoạn Thư đã tỏ rõ cái ghen sâu sắc, thâm thuý của người phụ nữ quý tộc
khi ra tay với Thuý Kiều. Nhiều nhà nghiên cứu, phê bình đã lên án sự nhu nhược của
Thúc Sinh: khi thấy nàng Kiều bị Hoạn Thư hành hạ, Thúc Sinh đã chỉ biết “khóc thầm”
mà không dám hành động công khai để cứu Kiều. Nhưng thiết nghĩ cần chú ý cả đến việc
Thúc Sinh đã kín đáo xin với Hoạn Thư để mụ tha cho Kiều: Rằng tài nên trọng mà tình
nên thương. Thì ra không phải Thúc Sinh nhu nhược, chàng chỉ muốn giữ cân bằng giữa

hai người phụ nữ thù hận. Chủ trương cân bằng giữa hai người phụ nữ này lại thấy trong
phiên toà công lý, Thúc Sinh thấy không khí báo ân báo oán đã có hai tâm trạng Sợ thay
mà lại mừng thầm cho ai.Sợ cho tính mạng Hoạn Thư và mừng cho thân phận thay đổi
của Thuý Kiều. Thuý Kiều cũng từng dự định trả món nợ Hoạn Thư tương xứng, song vì
lời lẽ có vẻ thuyết phục của Hoạn Thư mà mụ được Thuý Kiều tha bổng. Đây là một tình
huống cũng rất tiêu biểu cho xã hội nam quyền, trong đó, người đàn ông luôn “vô can”,
không bị phán xét về đạo đức hay trách nhiệm, còn những người phụ nữ lại hành hạ nhau
vì chính một người đàn ông đó. Cả Hoạn Thư và Thuý Kiều, tuy có địa vị xã hội, tính
cách, tài năng, tâm hồn khác nhau nhưng lại gặp nhau ở chỗ suy nghĩ và hành động theo
áp lực của xã hội nam quyền.
Đến đoạn kết thúc “đại đoàn viên”, nàng Kiều đã đứng trên quan điểm trinh tiết của
Nho gia để tự phán xét, để đưa ra phương châm ứng xử với Kim Trọng. Chính từ quan
điểm và chuẩn mực Nho gia đó, Thuý Kiều mang đầy mặc cảm tội lỗi vì cái điều mà nàng
không gây ra, vì cái điều mà thế giới đàn ông đã gây ra cho nàng. Nói cách khác, xét một
cách hệ thống, từ đầu đến cuối, khuôn hình ứng xử của Thuý Kiều chịu sự chi phối của xã
hội nam quyền với những cung bậc khác nhau.
Văn hoá giới là hệ thống những quan niệm giá trị hình thành từ thực tiễn quan hệ
giữa người nam với người nữ về mặt giới tính. Xã hội Việt Nam truyền thống có nhiều yếu
tố của xã hội nam quyền, trong đó, các chuẩn tắc đạo đức, hành vi áp dụngcho phụ nữ chính
là của những người đàn ông làm ra nên có những bất công lớn giữa quyền của nam và nữ.
Nếu ta nhìn con người trong xã hội phong kiến từ quan điểm giai cấp thì có cảm tưởng tất
cả mọi người dân đều bị thể chế phong kiến chà đạp. Nhưng nếu nhìn từ quan điểm giới, dễ
thấy, so với nam giới, chính người phụ nữ mới chịu nhiều bất công, đau khổ. Trong quan hệ
nam nữ, phạm trù trinh tiết như là biểu hiện của đạo đức chỉ áp dụng cho người phụ nữ; còn
người đàn ông đối với người phụ nữ được tự do, không bị ràng buộc bởi phạm trù này.
Không ai lại đi khen hay chê người đàn ông vì giữ (hay không giữ) trinh tiết với vợ, song
trinh tiết là một trong những chuẩn mực để khen chê đức hạnh người phụ nữ. Một nhà nho
có thể có hàng chục vợ hay một ông vua có hàng trăm cung nữ, nhưng vẫn “vô tư” bàn về
trinh tiết phụ nữ, vẫn sẵn sàng làm thơ, viết văn ngợi ca những người phụ nữ “tiết hạnh khả
phong”. Thực tế này là phổ biến trong văn học trung đại.

Vậy trinh tiết là chuẩn mực đạo đức một chiều áp đặt cho người phụ nữ. Nhưng
đáng chú ý là chính người phụ nữ từ bao đời lại cũng suy nghĩ và hành xử hệt như người
đàn ông về vấn đề trinh tiết này.
Về thực chất, khi Thuý Kiều từ chối cuộc sống vợ chồng với Kim Trọng là mang
một mặc cảm tự ti của người phụ nữ bị áp lực của chuẩn mực đạo đức do nam giới quy
định, tự cho rằng mình không xứng với Kim Trọng nữa sau bấy nhiêu năm lưu lạc giang
hồ. Mặc cho Kim Trọng hết sức cảm thông, chiêu tuyết cho nàng, Thuý Kiều vẫn một
mực từ chối. Tấn bi kịch của ngày tái ngộ chính là tấn bi kịch do mặc cảm về trinh tiết của
chính người phụ nữ đem lại cho chính mình. Hiển nhiên việc Kiều rơi vào cảnh “ong qua
bướm lại” là do chính bọn đàn ông gây ra, chính họ đã biến Kiều thành một cánh hoa tàn,
song Kiều không bao giờ truy nguyên nhân từ bọn họ. Cũng vậy, tất cả các nhà nho trong
lịch sử bình luận Truyện Kiều, từ Nguyễn Công Trứ đến Tản Đà, Huỳnh Thúc Kháng,…
vốn lớn tiếng phê phán Kiều là dâm, là đĩ nhưng không ai trong số các nhà nho ấy lên án
bọn đàn ông này  bởi vì nếp nghĩ quen thuộc là hướng đến quy trách nhiệm cho Kiều,
như muốn trách cứ Kiều vì nàng đã cam tâm sống mà không chọn cái chết để bảo toàn
trinh tiết như bao liệt nữ khác. Nguyễn Công Trứ đã nói thẳng vào mặt Kiều: Đoạn
trường cho đáng kiếp tà dâm! Người con gái, người phụ nữ phải một mình gánh chịu
những hậu quả đạo đức nghiêm trọngcho dù thủ phạm gây ra lại là đàn ông. Các nhà
nghiên cứu Truyện Kiều theo quan điểm xã hội học cũng không hơn gì, vì họ truy tìm
nguyên nhân gây nên đau khổ cho Thuý Kiều từ bản chất xã hội phong kiến chung chung,
mà chưa chỉ ra tính chất nam quyền của xã hội này cũng là nguyên nhân đã gây nên đau
khổ, bất công cho nàng.
Nguyễn Du dường như đã cảm nhận được tính chất bất công, vô lý của cái chuẩn
mực đạo đức một chiều ấy. Đoạn đại đoàn viên ghi lại chân thực quan niệm trinh tiết Nho
giáo đã ăn sâu vào cả cách nghĩ của người phụ nữ, nó là một trong những nguyên nhân
sâu xa dẫn đến tấn bi kịch của nàng Kiều ngay trong hồi đại đoàn viên. Thuý Kiều tự
nguyện gánh chịu tất cả khổ nạn do quan niệm trinh tiết mà nam giới đã áp đặt cho người
phụ nữ với một niềm xác tín là người đàn ông như Kim Trọng không thể sống với một
người phụ nữ thất tiết. Những lời xót xa của nàng Kiều đòi hỏi một sự suy nghĩ nghiêm
túc về trách nhiệm của những người đàn ông đối với vấn đề trinh tiết của phụ nữ thay vì

bình thản chứng kiến người phụ nữ phải gánh chịu hậu quả đến mức phải hy sinh cả hạnh
phúc của họ. Vấn đề là tại sao chỉ có người phụ nữ phải tuân thủ tiết hạnh? Và, tại sao
người phụ nữ lại chỉ có giá trị với điều kiện bắt buộc là phải có tiết hạnh? Dường như nhà
thơ vĩ đại muốn đặt những câu hỏi khá bức bối này của tư tưởng nữ quyền trong phần đại
đoàn viên của Truyện Kiều. Đó cũng là một phương diện giá trị của chủ nghĩa nhân đạo
của Nguyễn Du

×