Tải bản đầy đủ (.pdf) (8 trang)

Nhận dạng anh hùng sử thi "popol vuh"_1 pdf

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (178.33 KB, 8 trang )


Nhận dạng anh hùng sử thi
"Popol Vuh"






Sử thi có vai trò vô cùng quan trọng trong đời sống tinh thần nhân loại. Ở khu vực
văn hóa hậu kỳ Maya Trung Mỹ, mảng sử thi Popol Vuh đã vẽ nên đời sống tâm linh bí ẩn
của dân tộc Maya - Quiché: những cánh đồng ngô bao la mang bóng dáng con người,
những đền đài hùng vĩ như sự hiển hiện thần linh, những trận bóng tử sinh, dẫn đến lễ hiến
tế, hoạt động giao cấu và gieo hạt,… nơi đó nổi bật lên hình tượng anh hùng sử thi.
1. Vấn đề người anh hùng sử thi
Lẽ tất yếu, hình tượng nhân vật là chìa khóa giải mã tác phẩm. Văn học mang đặc
trưng tư duy hình tượng. Điều đó có nghĩa là văn học phản ánh hình ảnh chủ quan của thế
giới khách quan với phương pháp tiếp xúc một cách cảm tính cách xa đối thể, tái hiện nó
một cách sinh động toàn vẹn, tương đối độc lập khỏi hiện thực khách quan; trong đó bao
hàm thái độ của con người và mối liên quan giữa các sự vật, hiện tượng. Tư duy hình tượng
của văn học, vì thế, thống nhất giữa tình cảm, lý tưởng, thể nghiệm, hư cấu, trực giác và
ngoại hiện thành những hình tượng tác động vào tư duy, cảm nghĩ, tình cảm của người đọc.
Như vậy, nhân vật văn học là kết quả tất yếu của đặc trưng tư duy hình tượng của văn học.
Đến lượt mình, nhân vật văn học diễn hành với tư cách là một khái niệm mang tính giá trị.
Có nghĩa là trình độ nhà văn, tác giả cần đạt đến mức nhất định mới có thể phát sinh những
hình tượng văn học mang tính bản chất phổ quát nhưng vẫn không loại trừ cái riêng, cái cá
biệt. Nói cách khác, tác giả văn học phải có một mô hình quan niệm về con người và thế
giới, từ đó cuộc sống văn học diễn ra từ khâu hình thành nhân vật, thể nghiệm và đánh giá
đến tiếp nhận, định giá hình tượng theo những thước đo cảm thụ cá nhân người đọc…
Trong quá trình này, nhiều hình tượng nổi lên chiếm lĩnh vị trí của nó nhưng chủ yếu và thu
được nhiều chú ý nhất từ xưa đến nay trong các tác phẩm văn học vẫn là hình tượng nhân


vật.
Hình ảnh người anh hùng là ký mã quan trọng của sử thi. Rõ ràng tính dân tộc,
cộng đồng là một phạm trù trung tâm không thể phủ nhận trong sử thi. Vì vậy, nhân vật
anh hùng sử thi chủ yếu là các anh hùng, tráng sĩ thể hiện ý chí, tư tưởng, tình cảm, khả
năng của cộng đồng trong ánh sáng gián cách sử thi. Ở một góc nhìn rộng hơn, người anh
hùng sử thi thể hiện trình độ phát triển của thời đại. Người anh hùng sử thi, trong toàn bộ
tính hiện thực của nó là tổng hòa các mối quan hệ xã hội, cụ thể là những mối quan hệ của
thời đại anh hùng. Đó là giai đoạn tan rã các hệ hình thần thoại, con người bắt đầu ý thức
được giá trị bản thân thông qua mối gắn kết với thị tộc, bộ lạc cộng đồng nhưng vẫn
không quên ý thức về sức mạnh và tài năng chiến trận, văn hóa của cá nhân. Bởi thế hành
động của người anh hùng sẽ phù hợp với ý nguyện và quyền lợi của tập thể trong công
cuộc chinh phục tự nhiên, xây dựng đời sống cộng đồng. Tiếp nối tư duy huyền thoại,
người anh hùng trong lịch sử và chiến công mang tính thống nhất với sở hữu cộng đồng
luôn được miêu tả theo những chuẩn mực thẩm mỹ lý tưởng của dân tộc và thời đại. Đó là
những đặc tính rõ nét, những hành động vĩ đại,… mọi đường nét được khoa trương phóng
đại, khiến người anh hùng sử thi để lại dấu ấn sâu đậm trong lòng người đọc.
Nhân vật anh hùng sử thi Popol Vuh mang đặc điểm anh hùng dân gian. Nhân vật
anh hùng trong phần hai Popol Vuh - hai người anh hùng thần thánh Hunahpú và
Xbalanqué là loại hình anh hùng sử thi được định hình trong trên cơ sở truyền thống các sử
thi thần thoại kể về những bậc thủy tổ - những anh hùng văn hóa, về các tích truyện
dũng sĩ; xa xưa hơn nữa là các truyền thuyết lịch sử, các bài tụng ca. Nảy sinh vào thời
đại tan rã của chế độ công hữu nguyên thủy và phát triển trong xã hội cổ đại, phong
kiến, nơi còn bảo lưu từng phần các quan hệ gia trưởng, sử thi anh hùng ảnh hưởng của
các quan hệ và quan niệm ấy, đã miêu tả về quan hệ xã hội như quan hệ tông tộc với tất
cả các chuẩn mực luật lệ, tập tục. Bởi thế những người anh hùng dân gian như Hunahpú
và Xbalanqué luôn được đặt trong các mối quan hệ bộ tộc, gia đình, cuộc hành trình của
họ xuống địa ngục cũng chính là nhằm trả thù cho cha và chú.
Ở dạng cổ xưa nhất của sử thi, tính anh hùng còn hiện diện trong vỏ bọc thần thoại
hoang đường (các dũng sĩ không chỉ có sức mạnh chiến đấu mà còn có năng lực siêu nhiên,
ma thuật, kẻ địch thì luôn hiện diện dưới dạng quái vật giả tưởng). Những đề tài chính được

sử thi cổ xưa miêu tả: chiến đấu chống quái vật (cứu người đẹp và dân làng), người anh
hùng đi hỏi vợ, sự trả thù của dòng họ. Với Popol Vuh, người anh hùng thụ đắc dòng máu
thần thánh, sinh nở thần kỳ và có phép thuật tự thân; họ chiến đấu với hoàng tử và vua địa
ngục được thể hiện như thế lực ma quái thách thức, khuyến dụ và hãm hại con người.
Vì đặc tính trên, chúng tôi đặt ra giả thuyết về bốn đặc điểm của người anh hùng sử
thi dân gian Hunahpú và Xbalanqué bao gồm tính thường nhật, tính văn hóa sơ kỳ thị tộc,
xung đột cốt yếu mang tính bản thể, triết học và nhân vật anh hùng mang mẫu hình dân
gian.
2. Mẫu hình anh hùng sử thi là một quá trình định vị văn hóa, lịch sử cộng đồng
Popol Vuh - một dạng tổng tập văn học dân gian - được hình thành dựa trên nền tảng
xã hội Maya mà hạ kỳ của nó là Maya - Quiché. Nền văn minh Maya phát triển trên một địa
bàn rộng lớn mà trung tâm chính đặt tại bán đảo Yucatan, phía bắc lãnh
thổ Guatemala ngày nay. Đây được xem như đỉnh cao đầu tiên của văn minh bản xứ châu
Mỹ Latinh khởi đầu từ thế kỷ thứ IV phía nam Mexico và phía bắc Trung Mỹ. Đơn vị hành
chính trên lãnh thổ người Maya tồn tại kiểu thành bang do một thủ lĩnh chính trị, thần
quyền và quân sự lãnh đạo. Trong các thành bang thì Quiché là đại diện tiêu biểu nhất cho
sức mạnh văn hóa nghệ thuật của người Maya. Ngay sau sự thất thủ của người Mexico thì
người Quiché được phát hiện ra với tư cách như một phần lịch sử bị tiêu vong, ít được biết
đến của người Maya, những chủ nhân của các thành phố sầm uất kỳ vĩ bị bỏ quên một cách
bí hiểm. Trước đó không lâu, cơ cấu xã hội của người Quiché được hình dung bao gồm
những mảnh nhỏ của một nhà nước chính quyền trung ương gãy đổ để lại các phần tử nhỏ
như những thành bang thời Trung Cổ ở Ý. Vì sự phân tán này, tính thống nhất và cố kết bản
sắc trở nên yếu đi và ảnh hưởng của người Toltecs (Mexico), như vậy, có cơ hội thể hiện
sâu đậm. Chính người Toltecs đã dạy người Quiché xây dựng những công trình bằng đá và
sử dụng chữ tượng hình, đồng thời để lại nhiều dấu vết trong hệ thống thần thoại của dân
tộc này. Sử thi hai người anh hùng trong Popol Vuh, như vậy, có lẽ thuộc về giai đoạn
khoảng từ thế kỷ IV đến thế kỷ VII khi xã hội cộng đồng chưa bị phân tách thành những
thành bang; vấn đề của con người lúc này chưa phải là khẳng định sức mạnh trên chiến
trường giành lãnh thổ mà là đối mặt với nỗi ám ảnh lớn nhất của đời người, lớn nhất của
những cá nhân hoặc cộng đồng bắt đầu có tư duy bản thể: Cuộc chiến giữa cái sống và cái

chết.
Tác phẩm Popol Vuh thuộc nền văn hóa Maya - Quiché (lãnh địa Guatamala) ở vùng
Trung châu Mỹ. Tác phẩm này nằm trong hệ thống văn hóa cư dân bản địa, đặc biệt thể
hiện nhiều giá trị, luận điểm thú vị khi so sánh với sử thi Gilgamesh của vùng Lưỡng Hà
hay Odysse của Hy Lạp. Tương truyền tác phẩm này được một người Quiché vô danh ghi
lại bằng mẫu tự Latinh khoảng giữa thế kỷ XVI. Cuối thế kỷ ấy, một tu sĩ dòng Domonico
tên là Ximenes tìm thấy bản viết tay, dịch ra tiếng Tây Ban Nha. Năm 1861 tác phẩm được
công bố lần đầu bằng tiếng Pháp. Văn bản được tin cậy nhất hiện nay là công bình biên
khảo của nhà bác học Đức L.Suntxe-Ena (1944). Popol Vuh là một kiểu mẫu cho thể loại
mang tính quốc tế: sử biên niên theo nghĩa rộng nhất của từ này. Có nghĩa là nó bao gồm cả
những lớp truyện đầu tiên hoàn toàn là thần thoại đã in bóng vào lịch sử một cộng đồng dân
tộc đến những câu chuyện kể về một dòng họ lớn, những kỳ công của các anh hùng… Về
khía cạnh này thì có thể đặt tác phẩm ngang hàng với lịch sử Trung Quốc trong Ngũ
Kinh, Nihongi của Nhật,…
Tên Popol Vuh có nghĩa là Những ghi chép của Cộng đồng (Record of the
Community) hoặc có thể dịch một cách trau chuốt là “Quyển sách mở ra trên tấm thảm”
do từ nguyên trong tiếng Quiché của từ pop hay popol là một tấm thảm dệt bằng cói hay
bấc mà cả gia đình ngồi lên trong những đêm kể chuyện; từ vuh hay uuh có nghĩa là mảnh
giấy hay quyển sách do bắt nguồn từ động từ viết (uoch). Tác phẩm được viết bằng ngôn
ngữ Quiché. Đây là một phương ngữ của giọng phát âm Maya - Quiché được dùng vào
thời điểm xảy ra cuộc xâm lược của người phương Tây từ biên giới Mexico ở phía bắc
kéo dài đến phía nam thuộc Nicaragua ngày nay. Trong khi tiếng Maya được dùng chuẩn
giọng Yucatan, bang Chiapas thì tiếng Quiché được người dân sinh sống ở khu vực Trung
Mỹ (hiện nay thuộc Guatemala, Honduras và San Valvador - người bản ngữ vẫn dùng đến
nay). Thứ ngôn ngữ này hoàn toàn khác hẳn tiếng Nahuatl của người Anahuac
hay Mexico về nguồn gốc và cả cấu trúc. Bởi thế mối quan hệ giữa ngôn ngữ Popol
Vuh với các ngôn ngữ khác ở châu Mỹ mờ nhạt hơn cả mối tương quan giữa ngôn ngữ
Slave và Zecman
(1)
. Hiện tại tác phẩm này chưa được dịch sang tiếng Việt, tài liệu khảo

sát của chúng tôi là bản tiếng Anh của StasBekman và bản của Goetz -Morley do thư viện
đại học Ohio giữ bản quyền điện tử (Popol Vuh - www.meta-religion.com).
Thông qua quyển bách khoa thư này, người đọc có thể hình dung về bức tranh đời
sống tinh thần của người Maya cổ xưa với những khát khao giải thích tự nhiên và cuộc
sống. Song hành cùng mục đích phổ quát này, tác phẩm bộc lộ những đặc trưng riêng của
người Maya khi tư duy và lý giải sự vật, hiện tượng trong cuộc sống; đây chính là những
điểm thú vị trong văn học cổ đại châu Mỹ Latinh: Rằng đầu tiên con người được tạo ra từ
gỗ “Chúng cứ tiếp tục sống rồi sinh sôi nẩy nở, chúng có con trai, có con gái bằng gỗ…
nhưng tất cả đều không có linh hồn, không có tâm trí và không thể nhớ về Thượng Đế, về
Đấng Tạo Tác. Chúng bò trên đất bằng tay và đầu gối bâng quơ, vô định”
(2)
, rằng trò chơi
bóng không phải để giải trí mà nhằm giao hòa với thần Mặt Trời và để tái tạo sự sống thần
kỳ trên thế giới - đây cũng là căn nguyên sinh sản vô tính thần thoại mà hai người anh hùng
Hunahpú và Ixbalamqué sở hữu
Tác phẩm Popol Vuh gồm bốn phần: Phần một là thần thoại về sự sáng tạo vũ trụ, kể
lại từ thời thế giới còn là một cõi hư không vô tận đến khi sông núi, đất đai, muông thú, cỏ
cây,… người đàn ông và đàn bà Quiché ra đời do công lao của vị thần sáng tạo. Phần hai kể
về sự tích của hai người anh hùng bộ lạc do trí thông minh và lòng dũng cảm, lại được sự
giúp đỡ của các vị thần và muôn loài phù trợ đã diệt thù trong, thắng giặc ngoài; dạy dân
cách trồng trọt, mang lại hòa bình, ấm no, hạnh phúc cho con người. Phần ba gồm các
truyền thuyết về lịch sử người Quiché, những cuộc di dân xa xưa của họ, những cuộc xung
đột bên trong và mối quan hệ với các bộ lạc xung quanh. Phần bốn viết về lịch sử bộ lạc
thời kỳ gần gũi với niên đại ra đời của tác phẩm. Biểu thế hệ dòng họ quý tộc, những lời
tiên tri, trình độ tổ chức xã hội được ghi lại trong tác phẩm này là sự phân chia giai cấp ở
giai đoạn sơ kỳ. Như vậy, Popol Vuh là một tập hợp mang tính lịch đại hệ thống những câu
chuyện sáng thế, sử thi anh hùng, dòng họ và chiến tranh bộ lạc; tất nhiên bài viết này chỉ
khảo sát phần hai - sử thi về hai người anh hùng thần thánh.
3. Đặc điểm loại hình anh hùng sử thi Popol Vuh
Rõ ràng, đây là dạng anh hùng văn hóa (khác với anh hùng chiến trận

trong Ramayana, gần gũi hơn với Gilgamesh vàOdysse), được thể hiện rõ về nguồn gốc và
chiến công của người anh hùng.
Trước hết, về nguồn gốc, Hunahpú và Xbalanqué được thể hiện trong tác phẩm
mang một dòng họ danh giá - motif xuất thân cao quý này có thể gặp được trong hầu hết
các sử thi nhân loại. Xuất phát từ cặp cha mẹ thần thánh Xpiyacoc và Xmucane, người
được thần linh tạo ra như hai bản thể đầu tiên của con người linh thánh. Cha mẹ thần thánh
sinh hai người con trai là Hunhun - Ahpu và Vukub - Hunahpu. Người anh Hunhun - Ahpu
lấy vợ sinh được hai con trai, nhưng sau đó ông làm cho Xquiq (Máu) công chúa con quốc
vương Cuchumaquiq, người một mình dạo chơi địa phủ, mang thai; hai anh em thần thánh
ra đời từ người cha lưỡng tính và người mẹ đặc biệt. Chi tiết thụ thai thần kỳ xuất hiện
trong dạng anh hùng sử thi dân gian khá đậm nét. Công chúa Xquiq xuống địa phủ chơi,
nàng giơ tay hứng lấy chiếc đầu của người anh hùng treo trên thân cây leo, chiếc đầu rơi
xuống tay nàng và nước miếng làm nàng thụ thai. Từ chi tiết thụ thai thần kỳ, anh em được
cung cấp cho cơ sở để có thể thụ đắc những công cụ kỳ diệu, những pháp thuật huyền vi
trong cuộc lao động hằng ngày lẫn cuộc thử thách dưới âm phủ.
Như vậy, hai anh em Hunahpú và Xbalanqué không là hóa thân của thần linh nhưng
lại tự nhiên sở hữu những phép thuật kỳ diệu và cuối cùng thăng thiên thành mặt trăng mặt
trời. Đây là cái gốc rễ dân gian ăn sâu trong tư duy sử thi. Tuy nhiên cần phải khẳng định
rằng, nguồn gốc thần thánh hay dòng máu thiêng liêng không phải là điều đặc sắc nhất tạo
nên tầm vóc người anh hùng sử thi bởi trước sau thì anh em Hunahpú và Xbalanqué vẫn
được thể hiện như những người trần gian trong tất cả khó khăn khi đối mặt với cái chết…
Chính những điều này càng làm cho người anh hùng sử thi tỏa sáng với kỳ công lẫy lừng
của họ.
Ở đây, có thể thấy Hunahpú và Xbalanqué không được xây dựng theo kiểu lý tưởng.
Khi bị bà ngoại đuổi ra khỏi nhà thì những đứa trẻ đã nhanh chóng làm quen được với cuộc
sống ngoài tự nhiên và chúng trở thành những thợ săn thiện nghệ, với ống thổi chúng săn
chim và muông thú. Sau khi trừng phạt xong hai người anh cùng cha khác mẹ thì họ lại
được miêu tả là những nhạc sư vĩ đại… Những nét này nằm trong hệ thống chi tiết của
nhân vật cổ tích dân gian, không lý tưởng nhưng đủ giúp ích cho nhân vật trong quá trình
hoạt động tương lai của họ. Từ đó, có thể thấy chính tính nhân loại chứ không phải lý tưởng

tạo nên sức thành công của các anh hùng sử thi như Achille, Odysse, Rama, Gilgamesh,…
những kỳ công của họ sáng ngời không phải với tư cách những vị thần mà là những con
người nhất.
Hai anh em anh hùng sử thi Maya sơ kỳ còn phải đối phó hằng ngày với nhiều loại
kẻ thù, cả hai chân lẫn bốn chân, nơi họ không có khái niệm đạo đức khoan dung độ lượng.
Bởi thế để trả thù những người làm cho cuộc sống họ khó khăn, hai anh em biến bọn cùng
cha khác mẹ thành những con khỉ, một cách nào đó, họ còn uy hiếp cả bà nội thần thánh.
Những thử thách trong xã hội Maya sơ kỳ chưa phát triển đến mức những cuộc chiến kinh
thiên động địa như Ramayana hay cuộc chiến Troy,… mà chỉ dừng ở mức thử thách. Song
không vì vậy mà kém phần nguy hiểm, bởi thử thách của vua địa ngục quyết định sự sống
và cái chết của hai người anh hùng. Bởi thế chiến tranh hay đúng hơn là việc thi tài không
nằm ở tài phép, vũ khí mà chủ yếu là trí thông minh và tinh xảo để giành phần thắng (gần
với Odysse). Thay cho cái hùng ở Ramayana, Iliad là cái hài, cái sảng khoái vì chính nghĩa
thành công, cuộc đấu tranh mang nét hài là vì thế.
Hai người anh hùng sử thi chỉ mới là bức thảo ban đầu của những nhân vật sử thi sẽ
phát triển về sau. Hai anh em được đẩy lên đường nhằm mục đích báo thù, tình yêu đối với
họ không có mối liên quan mật thiết. Đẩy ngược lên thế hệ trước, cha mẹ họ cũng không
thấy xuất hiện định nghĩa tình yêu hay những xung động rạo rực, tất cả chỉ là một sự xếp
đặt, một mắt xích trong cái vòng tuần hoàn chu kỳ sự sống và cái chết. Vì thế hình tượng
hai người anh hùng Hunahpú và Xbalanqué thể hiện nét nhân bản ở ý nghĩa chiến công
mang bản chất nhân loại của họ.
Ở Popol Vuh, có thể nhận thấy một hệ hình có lẽ cổ xưa hơn cả Mahabahrata (có thể
đối sánh với thần thoại Ấn nơi bản thân tam vị nhất thể), trước cả hệ thống đa thần Hy Lạp.
Tác giả dân gian xây dựng mẫu người anh hùng lưỡng hợp, lưỡng tính. Có thể nói tính
lưỡng hợp có một dấu ấn đặc trưng của khu vực văn hóa châu Mỹ Latinh cổ đại và còn ảnh
hưởng nhiều đến văn học hiện đại (Đó là tính song trùng trong mô hình quan niệm Marquez
trong Trăm năm cô đơn khi ông xây dựng sự đan xen thực và ảo, cặp anh em nhà Buendia
giống nhau như đúc đến nỗi khi chết họ bị đặt nhầm quan tài,…). Người anh hùng phải là
hệ số chẵn trong bản thể và tính chất. Nếu như cha mẹ thần thánh sinh hai người con trai thì
người anh cả Hunhun - Ahpu lưỡng tính lại có vai trò quan trọng hơn người em trai Vukub

- Hunahpu. Chính Hunhun - Ahpu do vợ chết nên mới cùng em trai xuống địa phủ nhận thử
thách và chính ông đã cùng với công chúa Huyết tạo thành hai người anh hùng thần thánh
chiến thắng sức mạnh cái chết. Mô hình anh hùng song trùng lưỡng hợp có thể thấy rõ nhất
trong cặp anh em Hunahpú và Xbalanqué. Họ gắn bó với nhau trong tất cả các sự kiện, từ
làm ruộng ngô, săn bắn, biến hai người anh thành khỉ, chấp nhận thư khiêu chiến và vượt
qua mọi thử thách nơi âm ti, cuối cùng họ trường tồn cùng nhau trong thế song hành của
mặt trời và mặt trăng.

×