Tải bản đầy đủ (.pdf) (8 trang)

Nền văn chương đang lâm nguy (La Littérature en péril) ppsx

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (218.83 KB, 8 trang )

Nền văn chương đang lâm nguy
(La Littérature en péril)








Thứ bậc của ý nghĩa và giá trị đã bị đảo lộn: điều mà trước kia mong muốn là giá trị
biểu diễn, nay trở thành điều cần thiết, còn điều mà trước kia cần thiết là giá trị thần học
và huyền thoại, nay lại là điều không bắt buộc. Phòng triển lãm của viện bảo tàng hay
xưởng vẽ trở thành nơi biến một vật bất kì thành một tác phẩm nghệ thuật: để cổ vũ việc
nhận thức thẩm mĩ, chỉ cần vật này được trưng bày ở đó. Mối liên hệ tự động giữa nơi
trưng bày với kiểu nhận thức như thế này dĩ nhiên là rất cần thiết, kể từ khi Marcel
Duchamp đã đặt bức vẽ Chỗ đi tiểu (Urinoir ) nổi tiếng của mình tại một góc dành cho
các tác phẩm nghệ thuật: chỉ với vị trí trưng bày của mình, nó đã trở thành một tác phẩm
nghệ thuật cho dù quá trình sáng tạo ra nó, chẳng giống gì với quá trình tạo ra một bức
điêu khắc, hay một bức tranh.
Nói tóm lại, cả hai phong trào này đã làm thay đổi quan niệm về nghệ thuật, việc
đồng hóa người sáng tạo với Chúa - người đã sáng tạo ra vũ trụ và việc đồng hóa tác
phẩm với một vật đơn thuần chỉ để ngắm nhìn, đã minh họa cho việc thế tục hóa thế
giới dần dần ở châu Âu, nhưng cũng góp phần kéo theo sự thiêng liêng hoá mới của nghệ
thuật. Lúc ấy, nghệ thuật hoá thân thành sự tự do (liberté), quyền tối cao (souveraineté),
sự tự tại (autosuffisance), sự siêu việt (transcendance) của người sáng tạo so với thế giới.
Phong trào này củng cố cho phong trào kia: trên phương diện chức năng, cái đẹp được
định nghĩa như một thứ không có mục đích ứng dụng, trên phương diện cấu trúc, cái đẹp
được tổ chức với sự chặt chẽ của một vũ trụ. Việc thiếu mục đích bên ngoài được bù lại
bằng vô số những mục đích bên trong, tức là mối quan hệ giữa các bộ phận và các yếu tố
của tác phẩm. Nhờ vào nghệ thuật, cá nhân con người có thể đạt đến sự tuyệt đối.


MỸ HỌC THỜI KỲ ÁNH SÁNG
(L’esthétique des Lumière)
Khi chúng ta chuyển từ quan điểm sáng tạo (perspective de production) sang quan
điểm tiếp nhận (perspective de réception), chúng ta đã làm tăng khoảng cách giữa tác
phẩm với thế giới mà tác phẩm đề cập đến và tác động nên, bởi vì bây giờ, người ta muốn
tiếp nhận bằng chính tác phẩm và vì tác phẩm. Sự thay đổi này cũng bị ảnh hưởng bởi sự
chuyển biến sâu sắc mà xã hội châu Âu đã trải qua vào thời điểm ấy. Người nghệ sĩ dần
dần ngừng sáng tạo cho một người bảo trợ đã đặt hàng, và viết cho một công chúng mà họ
quan tâm tới tác phẩm: xưa nay, quần chúng là người nắm giữ sự thành công của tác giả.
Cái mà trước đây chỉ dành cho một vài đối tượng, thì nay trở thành phổ quát; cái mà trước
đây, được đặt dưới một thứ bậc nghiêm ngặt đó là Nhà thờ và các thể chế (pouvoir civil),
thì giờ đây, sự tiếp nhận trở nên bình đẳng.
Tư tưởng của các nhà văn thế kỷ Ánh sáng là sự tự chủ cá nhân; nghệ thuật đã
chinh phục sự tự chủ, cũng tham gia vào cùng một phong trào này. Người nghệ sĩ trở
thành sự hóa thân của cá nhân tự do, đến lượt mình, tác phẩm cũng tự giải phóng.
Khi kiên quyết đặt nghệ thuật dưới chuẩn mực (régime) của cái đẹp, các nhà tư
tưởng của thế kỉ XVIII không tìm cách cắt đứt mối quan hệ của nghệ thuật với thế giới;
nghệ thuật đã không trở thành xa lạ với cái chân và cái thiện. Họ đã giải thích theo quan
điểm Platon: cái đẹp vật chất chỉ là biểu hiện hời hợt nhất của cái Đẹp (le beau matériel
n’est que la manifestation la plus superficielle de la Beauté), nó trở lại với vẻ đẹp tâm
hồn, có nghĩa là trở lại với vẻ đẹp tuyệt đối, vĩnh cửu, bao gồm vừa hoạt động thực tiễn
của con người, đấy là đạo đức; vừa là việc tìm kiếm tri thức, đấy là chân lý.
Shaftesbury, người đầu tiên đã chuyển những thuật ngữ như chiêm ngưỡng
(comtemplation) và tự thoả mãn(autosuffisance) của Tôn giáo vào việc mô tả của nghệ
thuật, vẫn trình bày cái đẹp vật chất như một phương tiện để thấu hiểu được sự hài hòa
của thế giới và tiếp cận được tri thức. Vì thế, ông ta suy luận rằng: “Cái gì đẹp thì hài hòa
tương đối, cái gì hài hòa và tương đối thì đúng, do đó, cái gì vừa đẹp vừa đúng, thì thú vị
và tốt” (Ce qui est beau est harmonieux et proportionnel. Ce qui est harmonieux et
proportionnel est vrai, et ce qui est à la fois beau et vrai est, par conséquent, agréable et
bon”. Quá trình nhận thức, tác dụng của ý nghĩa không làm vơi cạn đi kinh nghiệm thẩm

mỹ, nhất là khi nghệ thuật thường được cho là mẫu mực, thơ ca không chỉ thuộc về âm
thanh và thị giác, mà còn đòi hỏi sự huy động của trí tuệ: vẻ đẹp thơ ca dựa trên ý nghĩa
của nó và không thể tách rời khỏi chân lý.
Các nhà tư tưởng không vì thế mà phản bác lại việc đọc các tác phẩm văn chương
như là một bài diễn giải về thế giới, mà tìm cách phân biệt hai con đường, con đường
của nhà thơ và con đường của các nhà khoa học (hay là các triết gia); mỗi con đường có
những lợi thế riêng, không câu nệ sự cao thấp: cả hai con đường đều dẫn đến cùng một
mục đích, đó là việc hiểu rõ hơn về con người và thế giới, hướng đến một trí tuệ siêu việt
hơn.
Một trong những người đầu tiên dấn thân vào việc đối chiếu hai loại tri thức này là
nhà triết học, nhà lịch sử học, nhà tu từ học thành phố Naples: Giambattista Vico, người đã
phân biệt ngôn ngữ lí trí với ngôn ngữ thơ ca. Đúng là ông đã liệt ngôn ngữ thơ ca vào loại
ngôn ngữ trong những thời kì đầu của quá trình phát triển loài người. Nhưng ông cũng quan
niệm rằng cả hai đã xuất hiện cùng một lúc; cả hai đối lập nhau như cái phổ biến
(l’universel) và cái cá thể (le particulier): “Con người không thể vừa là nhà thơ vừa là nhà
siêu hình vĩ đại; lí lẽ thơ ca chống lại điều đó. Quả thực, trong khi triết lí siêu hình học tách
trí tuệ khỏi các giác quan, thì thơ ca, ngược lại, muốn dấn sâu vào điều đó; trong khi siêu
hình học được nâng lên cao nhờ ý tưởng phổ quát thì thơ ca lại gắn bó với những trường
hợp cá biệt”. Đó là những điều mà Giambattista Vico đã viết trong cuốn Khoa học
mới(Science nouvelle) năm 1730.
Xác định vị trí của hoạt động nghệ thuật so với hoạt động của triết học cũng là một
trong những nhiệm vụ mà Baumgarten đã nêu lên trong cuốn Những suy ngẫm triết học về
thơ ca (Méditations philosophiques sur la poésie), xuất bản năm 1735 và trong cuốn Mỹ
học (Esthétique), năm 1750. Là đồ đệ của Leibniz, ông quan niệm rằng thơ ca như là
người sáng tạo ra “một thế giới có thể có” (monde possible) trong số nhiều thế giới khác,
và ông cũng hợp pháp hóa quan điểm thẩm mĩ: cho rằng, ưu tiên việc nhận thức thẫm mĩ
quan trọng hơn là việc sáng tạo. Cũng giống như khoa học, mĩ học có liên quan đến tri
thức nhưng không phải là tri thức thấp kém (điều này trái với điều mà một số công thức
đã nêu lên): mỹ học nêu lên “một tri thức tương tự như lí trí” và tạo ra “tri thức nhạy
cảm” (connaissance sensible). Loại tri thức này được tất cả mọi người tiếp nhận chứ

không chỉ có các nhà triết học, nó gợi lên tính cá thể của mỗi vật. Tri thức kéo theo một
chân lí khác với chân lí của các môn khoa học. Nó không chỉ được thiết lập giữa các từ
với thế giới, mà bao hàm cả sự liên đới của những con người sử dụng nó. Cái tên thích
hợp dành cho loại tri thức này là “vẻ giống như thực” (vraisemblance) và hiệu ứng của nó
“được tạo ra từ sự kết dính bên trong của thế giới mà nó sáng tạo nên”. Sự trừu tượng
xâm nhập vào cái tổng quát, và làm cho thế giới nhạy cảm bị nghèo nàn đi. Thơ ca thống
ngự thế giới của cảm xúc, ngay cả khi những kết luận của nó thiếu tính rõ ràng: Cái thơ
ca mất đi là độ kịch liệt, nó sẽ thắng lại bằng sự sắc sảo (ce qu’elle perd en acuité, elle le
gagne en vivacité.)
Lessing- tác giả lớn của thời kì Ánh sáng, người Đức, đã dành nhiều tác phẩm để
phân tích các phân môn nghệ thuật, cũng đã biết kết hợp hai luận điểm này. Một mặt, điều
làm nên nét đặc thù của tác phẩm nghệ thuật là nó khát khao tạo ra cái đẹp, mà cái đẹp
được định nghĩa như là sự hài hòa của các yếu tố tạo thành, và nó không chịu áp lực nào
của một mục đích bên ngoài. Mặt khác, tác phẩm tham gia vào một tập hợp rất rộng các
hoạt động nhằm mục đích tìm ra sự thật của thế giới và dẫn con người đạt đến sự anh
minh. Chính vì thế, trong cuốn “Laokoon” (1766), Lessing đã viết: “Tôi muốn người ta
dùng cái tênTác phẩm nghệ thuật để chỉ dành cho các tác phẩm mà người nghệ sỹ muốn
tự biểu hiện mình, với tư cách là người nghệ sĩ, nơi mà cái đẹp là mục đích đầu tiên cũng
là mục đích cuối cùng của tác giả. Tất cả các tác phẩm mang dấu vết của các quan niệm
tôn giáo đều không xứng đáng với tên gọi này, vì nghệ thuật ở đây không được tạo ra vì
chính bản thân nó, mà đó chỉ là công cụ bổ trợ cho tôn giáo, tác phẩm mà trong đó, người
ta quan tâm đến mặt ý nghĩa hơn là đến cái đẹp của việc miêu tả những biểu hiện nhạy
cảm do nó mang lại”. Quá trình này chứa đựng công thức “Nghệ thuật vì chính nó” (l’art
pour lui - même) và có lẽ là nguồn gốc của khái niệm “Nghệ thuật vị nghệ thuật” (L’art
pour l’art).
Lessing đã xác định việc đáp ứng những đòi hỏi của cái đẹp như là một nét đặc thù
của nghệ thuật. Nhưng không vì thế, mà ông bác bỏ việc đưa nghệ thuật vào hàng những
hoạt động biểu hiện. Ông đã viết: “Việc bắt chước là thuộc tính nghệ thuật cơ bản của nhà
thơ”, thậm chí, ông còn xác định hội họa như một nghệ thuật mô phỏng trong không gian,
còn thơ ca là mô phỏng về mặt thời gian.

Cũng như thế, trong cuốn Dramaturgie de Hambourg (1767), Lessing đã so sánh
công việc của nhà văn với công việc của một Đấng tạo hóa sáng tạo ra một thế giới chặt chẽ
nhưng độc lập: một thế giới mà các hiện tượng liên hệ với nhau theo một trật tự khác,
nhưng không kém chặt chẽ, một trật tự mà các tình tiết của hành động nảy sinh một cách tất
yếu từ các nhân vật, mà niềm đam mê của mỗi con người tương ứng hoàn toàn với
tính cách của họ. Theo hướng đó, tác phẩm thoát khỏi tác giả của nó, như thể tác giả đã viết
dưới sự xui khiến của các nhân vật: chân lí của họ nằm trong chính sự chặt chẽ của trật tự
đó.
Tuy nhiên, Lessing không hề có xu hướng tìm thấy trong tác phẩm một trò chơi cấu
trúc mang sẵn trong mình cái cứu cánh cuối của chính tác phẩm: “Viết và bắt chước có
chủ đích là điều phân biệt người nghệ sĩ thiên tài với người nghệ sĩ tầm thường, viết chỉ
để viết, bắt chước chỉ để bắt chước, bằng lòng với niềm vui nho nhỏ, gắn với việc sử dụng
các phương tiện của họ, và biến các phương tiện này thành mục đích của mình”.
Việc băn khăn trước hết đến cái đẹp là điều phân biệt nghệ thuật với phi nghệ
thuật, nhưng bằng lòng với mục đích này, hay khát khao một mục đích cao hơn là điều
phân biệt nghệ thuật tầm thường và nghệ thuật cao cả, người thợ thủ công với một kẻ
thiên tài: “Không có gì vĩ đại trong những cái không thật” (Rien n’est grand de ce qui
n’est pas vrai).
Chính vì vậy, sau khi đã cẩn thận nhắc lại rằng: “Chân lý của thơ ca không phải
chân lý của khoa học, nhưng gần với cái nguyên tắc giống như thật của Aristote,
Lessing đã ca ngợi các tác giả mà mình yêu thích, chính là ở chỗ, họ mở đường cho ông
đạt được chân lý.
Điều khiến Shakespeare trở thành một nhà viết kịch nổi tiếng là vì ông có “một
cái nhìn sâu sắc về bản chất của tình yêu”: Tác phẩm Othello là “một cuốn sách hoàn hảo
về sự cuồng nhiệt đáng buồn, sự nghen tuông”. Điều mà Euripide học được ở Socrate
không phải là một học thuyết triết học, hay là những châm ngôn đạo đức, mà là nghệ
thuật: “Hiểu người và hiểu mình; chú ý đến những cảm giác của bản thân, tìm kiếm và
yêu thích mọi sự trong những con đường tự nhiên và gần gũi nhất, dẫn đến bản chất, phán
xét một hiện tượng, dựa trên mục đích của nó”. Chính vì lẽ đó, mà đến lượt mình,
Euripide đã viết những vỡ bi kịch bất hủ.

Toàn bộ những quan niệm trên, sử dụng và tập hợp lại trong cuốn: Phê bình về khả
năng phán đoán thẩm mỹ (Critique de la faculté de juger) của Kant (1970). Cuốn sách đã
ảnh hưởng đến tư duy hiện đại về nghệ thuật, bằng cách vẫn duy trì hai quan điểm song
song: cái đẹp vừa là vô tư, nhưng đồng thời nó cũng là biểu tượng mang giá trị đạo đức.
Cái đẹp không thể được thiết lập một cách khách quan, bởi vì nó xuất phát từ sự phán
đoán của thị hiếu thẩm mỹ, và vì vậy, nó nằm trong sự chủ quan của độc giả hay khán giả;
nhưng cái đẹp có thể được nhận thấy qua sự hài hòa các yếu tố trong tác phẩm, và có thể
là đối tượng được mọi người nhất trí thừa nhận.
Người ta thấy một bằng chứng cho sự tác động tức thì của những quan niệm trên,
qua nhật kí của Benjamin Constant, người đã cùng với Germanie de Stael ở
lại Weimar vào đầu năm 1804. Vào ngày mười một tháng hai, ông ta đã ghi: “Ăn tối cùng
Robinson, học trò của Shelling, công việc của anh ta là nghiên cứu mĩ học của Kant. Ý
tưởng rất tinh vi. Nghệ thuật vì nghệ thuật và phi mục đích, mọi mục đích đều làm mất đi
bản chất của nghệ thuật. Nhưng nghệ thuật đạt đến mục đích mà nó không có”.
Đó là lần đầu tiên xuất hiện bằng tiếng Pháp cụm từ “Nghệ thuật vị nghệ
thuật” (l’art pour l’art), nhưng người ta phải có sự phân biệt các loại “mục đích”: mục
đích mà người nghệ sĩ đã đề ra trước tiên, với ý định minh họa cho tác phẩm (tức là mục
đích giáo dục của tôn giáo mà Lessing đã phản bác ở trên), với mục đích nội tại, gắn liền
với tác phẩm nghệ thuật, đặc biệt là các tác phẩm vĩ đại (tác phẩm của các thiên tài, mà
theo Lessing, chúng đối lập với tác phẩm của các nghệ sỹ tầm thường).
Một phần tư thế kỉ sau, khi viết về bi kịch, Constant đã xác định rõ tư tưởng của
mình: “Niềm đam mê thấm nhuần triết lí, nhằm để phát triển những tư tưởng triết học là
một điều nghịch lý đối với người nghệ sĩ”, nhưng điều đó không có nghĩa là tác phẩm
không tác động đến tri thức của độc giả: “Việc nâng cao tri thức, không phải là mục đích
của bức tranh mà là tác dụng của bức tranh”.
Constant là người phản đối mục đích giáo dục bằng văn chương, nhưng không vì
vậy mà tách văn chương ra khỏi thế giới: người ta không cần phải chọn lựa giữa hai thái
cực này. Ông ta đặt nghề viết văn vào vị trí trung tâm mọi nghề sử dụng chữ nghĩa khác,
như đã viết ở trang dưới đây vào năm 1807: “Văn chương gắn liền với tất cả các lĩnh vực.
Nó không thể tách rời khỏi chính trị, tôn giáo, đạo đức. Nó là thông điệp gởi gắm quan

điểm của con người về mỗi sự vật. Như mọi vật thiên nhiên, nó vừa là hậu quả, vừa là
nguyên nhân. Miêu tả thiên nhiên như một hiện tượng cô lập, thì đó không phải là miêu tả
thiên nhiên nữa”.
Do đó, không có cái “thơ ca thuần túy” (poésie pure), mọi thứ thơ ca tất yếu đều
phải “không thuần túy” (impure), vì nó cần có những ý tưởng và những giá trị, mà những
ý tưởng và giá trị này thơ ca không tự chiếm hữu. Constant vẫn rất trung thành với quan
điểm của người bạn mình - Germanie de Stael, người đã xuất bản một tác phẩm có tên gọi
rất ý nghĩa Bàn về văn chương - trong mối quan hệ với các thể chế xã hội (De la
littérature considérée dans ses rapports avec les institutions sociales) vào năm 1800. Bà đã
hiểu khái niệm Văn chương trong ý nghĩa rộng nhất của nó, bao gồm cả những tác phẩm
triết học, tác phẩm hư cấu, tất cả những gì liên quan đến việc rèn luyện tư tưởng, ngoại trừ
các ngành khoa học tự nhiên.
Văn học hư cấu bằng tưởng tượng, và những bài học triết học và khoa học được
phân biệt với nhau, nhưng vẫn nằm trong một thể loại chung; cả hai loại đều phụ thuộc
vào thế giới và tác động đến thế giới, góp phần tạo nên một xã hội tưởng tượng, trong đó,
đã sống bởi tác giả của quá khứ và sẽ sống bởi độc giả trong tương lai

×