Tải bản đầy đủ (.pdf) (5 trang)

VAI TRÒ QUYẾT ĐỊNH CỦA HẬU PHƯƠNG LỚN MIỀN BẮC ĐỐI VỚI TIỀN TUYẾN LỚN MIỀN NAM TRONG KHÁNG CHIẾN CHỐNG MĨ CỨU NƯỚC (1954 – 1975)_1 potx

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (108.44 KB, 5 trang )

VAI TRÒ QUYẾT ĐỊNH CỦA HẬU PHƯƠNG LỚN
MIỀN BẮC ĐỐI VỚI TIỀN TUYẾN LỚN MIỀN
NAM TRONG KHÁNG CHIẾN CHỐNG MĨ CỨU
NƯỚC (1954 – 1975)


Khi bàn về chiến tranh cách mạng, Lênin có một luận điểm nổi tiếng:
“Muốn tiến hành chiến tranh một cách nghiêm chỉnh phải có một hậu
phương tổ chức vững chắc”. Hậu phương và tiền tuyến có mối quan hệ
vô cùng mật thiết. Hậu phương mạnh thì tiền tuyến mạnh. Tiền tuyến
đánh thắng sẽ bảo vệ được hậu phương, động viên và tạo điều kiện thuận
lợi để hậu phương cũng cố và xây dựng. Ngược lại, việc xây dựng hậu
phương vững mạnh có tác dụng quyết định đến thắng lợi ở tiền tuyến.
Như chúng ta đã biết, sau hiệp định Giơnevơ đất nước bị chia cắt thành
hai miền với hai chế độ chính trị – xã hội khác nhau. Miền Bắc nước ta
hoàn toàn giải phóng đã hoàn thành nhiệm vụ cách mạng dân tộc dân
chủ nhân dân, đang tiến hành cách mạng XHCH và xây dựng CNXH.
Đó là một chuyển biến cực kì trọng yếu quyết định phương hướng phát
triển của cách mạng Việt Nam trong giai đoạn mới. Trong khi đó, Miền
Nam nước ta còn bị đặt dưới ách thống trị của đế quốc Mĩ và tay sai Ngô
Đình Diệm, nhiệm vụ cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân chưa hoàn
thành. Nằm trong nhiệm vụ chiến lược chung của cả dân tộc – nhằm
chấm dứt tình trạng dất nước bị chia cắt, Đảng đã xác định Miền Bắc là
hậu phương lớn và Miền Nam là tiền tuyến lớn. Miền Bắc tiến lên
CNXH, thực hiện cải tạo CNXH và bước đầu phát triển kinh tế, xã hội,
làm cơ sở tiền đề vững chắc cho cách mạng miền Nam phát triển. Miền
Bắc –hậu phương lớn, có vai trò quyết định nhất đối với sự phát triển
của cách mạng cả nước, đối với sự nghiệp thống nhất đất nước. Vì thế,
Miền Bắc phải có mối quan hệ gắn bó, phối hợp với miền Nam tạo điều
kiện cho nhau phát triển. Thắng lợi giành được ở mỗi miền là thắng lợi
chung cho cách mạng hai miền.


Ngay sau khi hiệp đinh Giơnevơ về Đông Dương được kí (7/1954), Mĩ
đã tiến hành chiến lược chiến tranh đặc biệt (1960 – 1965), chiến tranh
cục bộ (1965 – 1968). Đến năm 1968, khi bước vào Nhà Trắng, Nichxơn
đề ra chiến lược toàn cầu mang tên mình – “Học thuyết Nichxơn”, Học
thuyết này thực hiện đầu tiên ở miền Nam Việt Nam với chiến lược
“Việt Nam hóa chiến tranh”. Trong khi đó, ở Miền Nam lúc này quân và
dân ta gặp không ít khó khăn về vũ khí, lương thực thực phẩm, lực
lượng chiến đấu Để giữ vững và phát triển phong trào tấn công địch
Đảng và Hồ Chí Minh đã xác định: xây dựng miền Bắc thật sự “vững
mạnh và tiến bộ”, “thiết thực chiếu cố miền Nam”, “là nền tảng là gốc rễ
của lực lượng đấu tranh”,“Miền Bắc là chỗ đứng của ta. Bất kể trong
tình hình nào, miền Bắc cũng phải củng cố”, “Muốn thực hiện cương
lĩnh của Mặt Trận, thì chúng ta phải ra sức cũng cố Miền Bắc về mọi
mặt, ….Nền có vững, nhà mới chắc, gốc có mạnh, cây mới tốt”. Thực
hiện chủ trương chi viện lực lượng, vật chất cho miền Nam, ngay từ
tháng 7 năm 1954, Trung ương Đảng đã quyết định thành lập đoàn vận
tải trên biển Đông, đặt tên là Đoàn 759. Bộ Chính trị cũng quyết định tổ
chức tuyến giao liên vận tải quân sự trên bộ và trên biển (sau này là
tuyến đường Trường Sơn, đường Hồ Chí Minh trên biển)để vận chuyển
hàng quân sự vào miền Nam, tổ chức đưa cán bộ, bộ đội, chuyển công
văn, tài liệu đi lại giữa hai miền. Như vậy, ngay từ đầu Đảng và nhà
nước đã nhận thấy được tầm quan trọng, vai trò quyết định của hậu
phương lớn miền Bắc với tiền tuyến lớn Miền Nam. Đây là một đường
lối hoàn toàn đúng đắn của Đảng.
Từ khi hòa bình lập lại, dưới sự lãnh đạo của Đảng, nhân dân ta ở miền
Bắc đã khắc phục mọi khó khăn gian khổ, hoàn thành cải tạo ruộng đất,
kết thúc thắng lợi thời kì khôi phục kinh tế, hàn gắn vết thương chiến
tranh và hăng hái thi đua ra sức thực hiện kế hoạch nhà nước “3 năm”,
“5 năm”, cải tạo kinh tế, phát triển kinh tế, văn hoá, văn hoá… để nâng
cao thêm một bước đời sống vật chất và văn hóa cho nhân dân và hơn

hết làm nhiệm vụ hậu phương chi viện cho miền Nam, cùng miền Nam
hoàn thành sự nghiệp giải phóng dân tộc từ đó làm cơ sở vững chắc cho
công cuộc đấu tranh thống nhất nước nhà.
Miền Bắc khẩn trương tổ chức động viên sức người, sức của nhằm chi
viện nhanh chóng, kịp thời, liên tục đáp ứng yêu cầu của chiến trường
miền Nam trong các cuộc tiến công và nổi dậy.Công tác động viên lực
lượng ở miền Bắc được thực hiện trên quy mô lớn nhằm tăng cường hơn
nữa sức mạnh chiến đấu cho quân đội, đáp ứng yêu cầu bổ sung quân số
cho chiến trường miền Nam. Thực hiện lời kêu gọi của Hồ Chí Minh
“Mỗi người làm việc bằng hai”, “vì miền Nam ruột thịt” nhân dân miền
Bắc từ thành thị tới nông thôn, từ miền xuôi đến miền ngược, đã hăng
hái thi đua lao động sản xuất, tiết kiệm tiêu dùng, chi viện cao nhất cho
đồng bào và chiến sĩ Miền Nam. Khẩu hiệu “Tay cày tay súng” với các
phong trào thi đua như “Sóng Duyên Hải” trong công nghiệp, “Gió Đại
Phong” trong nông nghiệp, “Cờ Ba Nhất” trong lực lượng vũ trang, “Hai
tốt” trong trường học, “Thầy thuốc như mẹ hiền” trong ngành y tế, “Ba
cải tiến” trong các cơ quan, “Ba đảm đang” trong phụ nữ, “Ba sẵn sàng”
trong thanh niên…phát triển rộng khắp, trở thành cao trào.
“Trong 15 năm qua Miền Bắc nước ta đã tiến những bước dài chưa từng
thấy trong lịch sử dân tộc. Đất nước, xã hội và con người đều đổi mới”
(Hồ Chí Minh). Miền Bắc đã tạo cơ sở mới về chính trị, kinh tế, quốc
phòng để chi viện lực lượng và vật chất cho miền Nam. Với chế độ
chính trị ưu việt, với lực lượng kinh tế và quốc phòng lớn mạnh cùng với
sự hậu thuẫn của quốc tế Miền Bắc đã trở thành căn cứ địa vững chắc
cho cách mạng Việt Nam trong cả nước, tạo tiền đề cho cách mạng miền
Nam Việt Nam chuyển hướng, giúp miền Nam vượt qua muôn vàn khó
khăn gian khổ, vùng lên đúng lúc, trụ vững trong những lúc ác liệt nhất,
hình thành thế trận chiến tranh nhân dân rộng khắp trên cả ba vùng chiến
lược. Đây là cơ sở vững chắc để Đảng ta cũng cố và nâng cao quyết tâm
chiến đấu chống đế quốc Mĩ xâm lược.

Nhận thấy vai trò của hậu phương lớn miền Bắc đối với chiến trường
miền Nam, đế quốc Mĩ đã hai lần tiến hành chiến tranh phá hoại với quy
mô lớn, với mức độ đánh phá ác liệt đối với Miền Bắc và đối với tuyến
giao thông vận tải chiến lược hòng ngăn chặn sự chi viện của hậu
phương lớn đối với miền Nam. Mĩ muốn phá hoại tận gốc tiềm lực quân
sự kinh tế của Việt Nam, “kéo lùi miền Bắc Việt Nam trở lại thời kì đồ
đá”, làm cho ta không còn khả năng chiến đấu.
Miền Bắc đã tập trung lớn khả năng về lực lượng, phương tiện để khắc
phục tại chổ và kịp thời hậu quả của chiến tranh, vượt qua vòng vay
phong tỏa của địch để tiếp nhận tốt hàng viện trợ của bên ngoài và tiếp
viện theo yêu cầu của tiền tuyến miền Nam. Cuộc chiến tranh phá hoại
của Mĩ đến đỉnh cao và hết sức ác liệt vẫn không ngăn được miền Bắc
làm nghĩa vụ hậu phương. Dưới bom đạn ác liệt của kẻ thù, miền Bắc
vừa chiến đấu vừa sản xuất, tiếp tục xây dựng chủ nghĩa xã hội trong
khói lửa chiến tranh; duy trì, phát triển tiềm lực về mọi mặt, tiếp tục tăng
cường lực lượng ngày càng lớn cho tiền tuyến, đồng thời về cơ bản vẫn
giữ vững đời sống nhân dân hậu phương ổn định, đảm bảo càng đánh
càng mạnh. Từ năm 1965 đến năm 1975, miền Bắc đã động viên hàng
triệu lao động, mở rộng lực lượng vũ trang và phục vụ chiến đấu. Trong
thời gian diễn ra những cuộc tiến công chiến lược (1968, 1972, 1975),
nhân lực động viên ở miền Bắc phục vụ nhu cầu chiến tranh tăng gấp 4
đến 5 lần so với trước.

×