SỰ CHI VIỆN, GIÚP ĐỠ CỦA LIÊN XÔ VỚI VIỆT
NAM
TRONG CUỘC KHÁNG CHIẾN CHỐNG MỸ, CỨU
NƯỚC
(1954-1975)
PGS.TS. Lê Văn Thịnh[1]
1. Quan hệ Việt Nam - Liên Xô được xây dựng và phát
triển trên nền tảng quan hệ về chính trị giữa Đảng
Cộng sản Việt Nam và Đảng Cộng sản Liên Xô. Từ năm
1950, sau khi có quan hệ ngoại giao giữa hai nhà
nước, Chính phủ Liên Xô đã triển khai hoạt động
nhiều mặt, nhằm hỗ trợ nhân dân Việt Nam trong hai
cuộc kháng chiến chống lại sự xâm lược của các nước
đế quốc phương Tây, bảo vệ các quyền dân tộc cơ bản
của mình. Sự giúp đỡ của Liên Xô với Việt Nam trong
lịch sử là vấn đề được giới nghiên cứu trong và ngoài
nước quan tâm. Trên cơ sở nguồn tư liệu tập hợp
được chủ yếu từ phía Việt Nam, công trình này tập
trung làm rõ một số mặt trong sự giúp đỡ của Liên Xô
với Việt Nam trên hai lĩnh vực chính, viện trợ kinh tế,
kỹ thuật và viện trợ quân sự những năm từ 1954 đến
năm 1975.
2. Thời kỳ nhân dân Việt Nam tiến hành cuộc kháng
chiến chống Mỹ cứu nước cũng là thời kỳ diễn ra
nhiều biến động phức tạp trong quan hệ quốc tế. Đó là
sự bất đồng ngày càng nghiêm trọng giữa các đảng
cầm quyền trong các nước xã hội chủ nghĩa về những
vấn đề chiến lược và sách lược cách mạng; sự phát
triển mạnh mẽ của phong trào đấu tranh giải phóng
dân tộc và phong trào không liên kết trong khung
cảnh căng thẳng của chiến tranh lạnh Đông - Tây. Bối
cảnh quốc tế đó đã tác động khá sâu sắc tới quan hệ
Việt Nam - Liên Xô, tới sự chi viện, giúp đỡ của Liên Xô
với Việt Nam, đặc biệt là chi viện, giúp đỡ về quân sự.
Song nhờ những nỗ lực chung của lãnh đạo hai nước,
đặc biệt là phía Việt Nam, quan hệ Việt Nam - Liên Xô
từng bước được xây dựng vững chắc và phát triển
ngày càng toàn diện trên cơ sở các hiệp định, hiệp ước
và nghị định song phương. Trong khoảng 20 năm, từ
tháng 7 năm 1955 đến hết năm 1975, Chính phủ Liên
Xô đã ký với Chính phủ Việt Nam 19 Hiệp định, 1 Hiệp
ước và 1 Nghị định thư. Trong đó có trên 50% là hiệp
định về việc Liên Xô viện trợ, giúp đỡ Việt Nam trên
hầu hết các lĩnh vực, đặc biệt là trong lĩnh vực kinh tế,
văn hoá và khoa học, kỹ thuật[2]… Các hiệp định, hiệp
ước và nghị định này là cơ sở pháp lý để Chính phủ
Liên Xô xúc tiến các hoạt động chi viện, giúp đỡ Việt
Nam thực hiện các kế hoạch khôi phục kinh tế, phát
triển văn hoá, tăng cường tiềm lực quốc phòng, đẩy
mạnh cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước đi đến
thắng lợi.
Viện trợ về kinh tế và kỹ thuật
Tháng 7 năm 1955, nhân chuyến thăm chính thức của
Chủ tịch Hồ Chí Minh, Chính phủ Liên Xô đã ký với Việt
Nam một số hiệp định cho vay và viện trợ không hoàn
lại, nhằm giúp Việt Nam khôi phục kinh tế sau kháng
chiến chống thực dân Pháp. Ngày 18 tháng 7 năm
1955, theo thoả thuận giữa hai chính phủ, Liên Xô đã
viện trợ cho Việt Nam 400 triệu rúp để thực hiện kế
hoạch 3 năm (1955-1957). Trong đó có 171 triệu rúp
để nhập các thiết bị toàn bộ phục vụ ngành công
nghiệp, trước hết là xây dựng các nhà máy điện và hệ
thống đường dây điện, trạm biến thế, đài khí tượng…;
229 triệu rúp để nhập các máy móc lẻ và hàng hoá
phục vụ nông nghiệp và cải thiện đời sống[3].
Những năm từ 1958-1960, khi Việt Nam thực hiện kế
hoạch 3 năm cải tạo kinh tế, phát triển văn hoá, Liên
Xô tiếp tục cho Việt Nam vay tín dụng dài hạn 450
triệu rúp, trong đó có 100 triệu rúp (hiệp định ký
tháng 3 năm 1959) để thực hiện kế hoạch 3 năm
(1958-1960) và 350 triệu rúp (hiệp định ký ngày 14
tháng 6 năm 1960) để mua trang thiết bị, máy móc
xây dựng 46 nông trường quốc doanh, trong đó có 19
nông trường mới và củng cố 27 nông trường khác.
Hầu hết các nông trường này đều trồng các loại cây
nhiệt đới lâu năm, như: chè, cà phê, cao su và các loại
cây ăn quả như: cam, chuối, dứa… phục vụ xuất khẩu.
Cũng thời gian này, Liên Xô còn giúp Việt Nam xây
dựng 21 đài khí tượng thuỷ văn, 156 trạm thuỷ văn
các cấp, chủ yếu phục vụ ngành nông nghiệp[4].
Khi Việt Nam thực hiện kế hoạch 5 năm lần thứ nhất
(1961-1965), Liên Xô đã ký với Việt Nam nhiều hiệp
định trợ giúp về kinh tế và kỹ thuật, như: Hiệp định về
việc Liên Xô giúp Việt Nam thực hiện kế hoạch phát
triển kinh tế quốc dân những năm từ 1961-1965 (ký
ngày 23 tháng 12 năm 1960); Hiệp định về việc Liên
Xô giúp đỡ về kinh tế và kỹ thuật, cung cấp thiết bị và
vật liệu cho Việt Nam trong việc xây dựng và mở rộng
một số xí nghiệp và công trình công nghiệp (ký ngày
15 tháng 9 năm 1962) Theo tinh thần các hiệp định
này, Liên Xô giúp Việt Nam 460 triệu rúp, bao gồm các
khoản cho vay tín dụng dài hạn và viện trợ không
hoàn lại; hỗ trợ Việt Nam các thiết bị kỹ thuật, vật liệu
để xây dựng các nhà máy và nhiều công trình dân
dụng khác.
Cho đến cuối năm 1964, Liên Xô đã giúp Việt Nam cải
tạo và xây dựng 90 xí nghiệp và công trình dân dụng,
bao gồm 43 công trình công nghiệp, 46 nông trường
quốc doanh và một số trường đại học, bệnh viện.
Trong số các công trình công nghiệp được Liên Xô hỗ
trợ 100% vốn và vật tư, kỹ thuật, đáng chú ý nhất là 7
nhà máy điện (Vinh, Thanh Hoá, Lào Cai, Phú Thọ, Phả
Lại, Tà Sa, Nà Ngần) với tổng công suất là 71.300 ki
-lô-oát và 8 đường dây tải điện dài 130 kilômét. Nhiều
công trình khai khoáng và xí nghiệp chế biến thực
phẩm khác, như: mỏ thiếc Tĩnh Túc Cao Bằng, mỏ
apatít Lào Cai, nhà máy cá hộp Hải Phòng[5]… cũng
được Liên Xô hỗ trợ, đầu tư xây dựng trong thời kỳ
này.
Từ năm 1965, khi đế quốc Mỹ leo thang đánh phá
miền Bắc và tiến hành cuộc chiến tranh cục bộ ở miền
Nam, Chính phủ Liên Xô lên án mạnh mẽ hành động
leo thang chiến tranh của Mỹ và công khai viện trợ
nhiều mặt cho Việt Nam. Từ năm 1965 đến năm 1975,
Liên Xô đã ký với Việt Nam 12 Hiệp định, trong đó có
tới 7 Hiệp định về việc Liên Xô cam kết “giúp đỡ
thêm”, “viện trợ thêm không hoàn lại” cho Việt Nam,
như: Hiệp định về việc Chính phủ Liên bang cộng hoà
xã hội chủ nghĩa Xô Viết viện trợ thêm không hoàn lại
về kinh tế cho Chính phủ nước Việt Nam dân chủ cộng
hoà(ký ngày 10 tháng 7 năm 1965); Hiệp định giữa
Chính phủ nước Việt Nam dân chủ Cộng hoà và Chính
phủ Liên bang cộng hoà xã hội chủ nghĩa Xô Viết về
việc giúp đỡ thêm về kỹ thuật cho nước Việt Nam dân
chủ cộng hoà (ký ngày 21 tháng 12 năm 1965); Hiệp
định về việc Chính phủ Liên bang cộng hoà xã hội chủ
nghĩa Xô Viết viện trợ không hoàn lại về kinh tế cho
Chính phủ nước Việt Nam dân chủ cộng hoà trong
năm 1966 (ký ngày 21 tháng 12 năm 1965); Hiệp
định về việc Chính phủ Liên bang cộng hoà xã hội chủ
nghĩa Xô Viết viện trợ không hoàn lại cho Chính phủ
nước Việt Nam dân chủ cộng hoà (ký ngày 25 tháng
11 năm 1968)[6]…
Đầu tháng 7 năm 1973, để giúp nhân dân Việt Nam
nhanh chóng khôi phục nền kinh tế sau chiến tranh
phá hoại lần 2 của Mỹ, Uỷ ban trung ương Đảng Cộng
sản Liên Xô và Hội đồng Bộ trưởng Liên Xô đã thông
qua quyết định: coi tất cả các khoản tín dụng cho Việt
Nam vay trong những năm trước đó nhằm phát triển
kinh tế là viện trợ không hoàn lại. Theo tinh thần
đó, ngày 12 tháng 7 năm 1973, Chính phủ Liên Xô đã
ký với Chính phủ Việt Nam Hiệp định miễn cho Việt
Nam trả các khoản nợ đã vay[7]. Trong hoàn cảnh lúc
bấy giờ, đây là quyết định rất quan trọng, thể hiện
tình hữu nghị, sự cảm thông, chia sẻ và quan tâm to
lớn của Đảng và Chính phủ Liên Xô với nhân dân Việt
Nam. Các khoản tín dụng không phải hoàn lại đó đã
góp phần cổ vũ và trợ giúp nhân dân Việt Nam trong
việc khôi phục nền kinh tế miền Bắc sau chiến tranh
phá hoại và đẩy nhanh các chiến lược quân sự, tiến
tới giải phóng hoàn toàn miền Nam vào đầu năm
1975.
Trong khoảng 20 năm (1955-1974), tổng giá trị các
vật tư kỹ thuật và thiết bị toàn bộ mà Liên Xô đưa vào
Việt Nam để xây dựng và phát triển kinh tế, chủ yếu
bằng con đường viện trợ và cho vay là 2.176.051.000
rúp. Với số vật tư kỹ thuật và thiết bị toàn bộ này, Liên
Xô đã xây dựng 135 xí nghiệp công nghiệp và công
trình dân dụng ở Việt Nam, bao gồm 46 công trình
cho ngành điện lực; 5 công trình cho ngành khai thác
khoáng sản; 19 công trình cho ngành cơ khí, luyện
kim; 41 công trình cho ngành giao thông vận tải; 1
công trình cho ngành hoá chất; 3 công trình cho
ngành vật liệu xây dựng và 20 công trình cho ngành
nông nghiệp[8]. Các công trình công nghiệp do Liên
Xô giúp đỡ xây dựng, như: các nhà máy thuỷ điện,
nhiệt điện, mỏ than Vàng Danh, mỏ thiếc Tĩnh Túc,
Nhà máy cơ khí Hà Nội, Nhà máy Super phốt phát
Lâm Thao, nhà máy chè Phú Thọ, nhà máy cá hộp Hải
Phòng… đã góp phần xây dựng mới một số ngành
công nghiệp ở Việt Nam. Đến cuối những năm 60, các
nhà máy, xí nghiệp do Liên Xô xây dựng ở miền Bắc
Việt Nam đã sản xuất được 46% năng lượng điện,
90% than đá, trên 80% máy cắt kim loại và 100% sản
lượng khai thác các loại quặng apatít, thiếc và super
phốt phát.
Cùng với việc hỗ trợ các máy móc, thiết bị toàn bộ, các
khoản tín dụng dài hạn và viện trợ không hoàn lại để
xây dựng, phát triển kinh tế, Chính phủ Liên Xô còn
giúp Việt Nam phát triển ngành giáo dục, đào tạo và
trực tiếp đào tạo cán bộ cho Việt Nam. Từ năm 1955
và nhiều năm sau đó, các hiệp định về hợp tác, trao
đổi trên các lĩnh vực khoa học kỹ thuật và đào tạo
giữa Việt Nam và Liên Xô đã được ký kết và thường
xuyên được bổ sung. Theo hướng đó, Liên Xô đã giúp
Việt Nam xây dựng mới một số trường đại học, như:
trường Đại học Bách khoa Hà Nội, trường Đại học
Nông nghiệp I, đồng thời hỗ trợ tu sửa, nâng cấp, xây
dựng mới một số trường dạy nghề khác. Đến đầu
những năm 70 đã có trên 7.000 nam, nữ thanh niên
Việt Nam được đưa sang học tập và công tác tại Liên
Xô. Trong số đó có 4.500 người được đào tạo trong
các trường đại học tại 35 thành phố của Liên Xô lúc
bấy giờ. Đây là nguồn nhân lực rất quan trọng cho sự
nghiệp công nghiệp hoá xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam.
Nhiều người trong số đó sau này đã trở thành những
nhà lãnh đạo cấp cao của Đảng và Nhà nước, những
nhà khoa học đầu ngành, những chuyên gia, nhà quản
lý trên rất nhiều lĩnh vực ở Việt Nam. Cũng thời gian
đó, nhiều chuyên gia kinh tế và kỹ thuật giàu kinh
nghiệm của Liên Xô cũng được Chính phủ Xô Viết đưa
sang công tác tại Việt Nam. Chỉ trong 5 năm, từ 1955
đến 1960, Liên Xô đã cử sang Việt Nam 1.547 chuyên
gia trên hầu hết các lĩnh vực giúp nhân dân Việt Nam
xây dựng và phát triển kinh tế, giúp Việt Nam đào tạo
tại chỗ 7.000 công nhân cho các ngành nghề khác
nhau[9].
Viện trợ về quân sự
Đi đôi với viện trợ về kinh tế và kỹ thuật, Chính phủ
Liên Xô còn viên trợ Việt Nam các mặt hàng chiến
lược về quân sự, giúp Việt Nam tăng cường tiềm lực
của nền quốc phòng toàn dân, bảo vệ tổ quốc. Theo
một nguồn tài liệu của Việt Nam, tổng trọng lượng
các mặt hàng quân sự, bao gồm cả hậu cần quân sự
và kỹ thuật quân sự mà Chính phủ Liên Xô viện trợ
Việt Nam trong kháng chiến chống Mỹ cứu nước là
513.582 tấn. Các mặt hàng quân sự này được Chính
phủ Liên Xô thực hiện qua nhiều giai đoạn với số
lượng khác nhau, cao nhất là giai đoạn 1965-1968:
226.969 tấn; tiếp đến là giai đoạn 1969-1972: 143.793
tấn; giai đoạn 1973-1975: 65.601 tấn; giai đoạn 1961-
1964: 47.223 tấn và cuối cùng, thấp nhất là giai đoạn
1955-1960: 29.996 tấn.
Riêng về các mặt hàng kỹ thuật, chủng loại các vũ khí,
khí tài Liên Xô viện trợ Việt Nam trong kháng chiến
chống Mỹ khá phong phú. Đem so với viện trợ chung
về quân sự của các nước xã hội chủ nghĩa, chúng tôi
thấy:
Về súng: Liên Xô đã viện trợ Việt Nam 439.198 khẩu
súng bộ binh, chiếm 12,17%; 5.630 khẩu súng chống
tăng, chiếm 8,6% và 1.076 khẩu súng cối các loại,
chiếm 3,8% viện trợ cùng loại của các nước xã hội chủ
nghĩa.
Về pháo và đạn pháo: Liên Xô đã viện trợ Việt Nam
1.877 khẩu pháo hoả tiễn, chiếm 86,6%; 789 khẩu
pháo mặt đất, chiếm 32,5% và 480 quả đạn tên lửa
K681, chiếm 50% viện trợ cùng loại của các nước xã
hội chủ nghĩa.
Về máy bay và tàu chiến: Liên Xô đã viện trợ Việt Nam
316 chiếc máy bay (bao gồm máy bay chiến đấu và
máy bay vận tải quân sự), chiếm 69%; 52 chiếc tàu
chiến hải quân, chiếm 63,4% và 21 chiếc tàu vận tải
hải quân, chiếm 14,1% viện trợ cùng loại của các
nước xã hội chủ nghĩa.
Về các loại xe và các thiết bị kỹ thuật quân sự phục vụ
thông tin liên lạc, phục vụ công tác hậu cần, giao
thông vận tải, Liên Xô đã viện trợ Việt Nam 687 chiếc
xe tăng các loại, chiếm 55%; 601 chiếc xe vỏ thép,
chiếm 62,5%; 1.332 chiếc xe xích kéo pháo, chiếm
55,2%; 498 chiếc xe chuyên dùng (xe đặc chủng),
chiếm 5,2%; 100 chiếc xe máy công trình, chiếm 2,4%;
12 bộ phao cầu, chiếm 30%; 56 bộ ống dẫn dầu, chiếm
50%; 4.500 km đường ống dẫn dầu dã chiến, chiếm
90% và 37 bộ thiết bị toàn bộ về kỹ thuật quân sự
chiếm 58,7% viện trợ cùng loại của các nước xã hội
chủ nghĩa.
Là quốc gia có nền công nghiệp quốc phòng hùng
mạnh, Liên Xô còn là nước duy nhất đã viện trợ Việt
Nam 647 bộ điều khiển; 1.357 bệ phóng tên lửa;
10.169 quả đạn tên lửa; 23 quả tên lửa SA 75M; 8.686
quả đạn tên lửa VT 50v và 2 trung đoàn tên lửa
S125[10].
Thêm vào đó, sau sự kiện Vịnh Bắc Bộ tháng 8 năm
1964 và khi bất đồng Xô - Trung đã bộc lộ công khai,
nguyên tắc “giúp đỡ chung”[11] giữa Liên Xô và
Trung Quốc với Việt Nam không còn hiệu lực, việc quá
cảnh hàng hóa viện trợ của Liên Xô qua Trung Quốc
gặp khó khăn, hầu hết các trang thiết bị kỹ thuật, khí
tài quân sự và các loại vật tư, hàng hoá khác mà Liên
Xô viện trợ Việt Nam đều được các hải đoàn Xô Viết
trực tiếp vận chuyển tới Việt Nam bằng đường biển,
bất chấp mọi nguy hiểm bởi sự phong toả gắt gao và
đánh phá rất ác liệt của lực lượng không quân Mỹ
trên vùng biển miền Bắc Việt Nam. Một số tàu của
Liên Xô như tàu Polock, tàu Turkestan… đã bị máy bay
Mỹ bắn phá khi đang làm nhiệm vụ quốc tế trên các
cảng biển miền Bắc Việt Nam.
Ngoài ra, theo thoả thuận giữa hai nhà nước, Chính
phủ Xô Viết đã cử nhiều chuyên gia quân sự giàu kinh
nghiệm sang công tác tại Việt Nam. Số lượng các
chuyên gia quân sự Liên Xô sang Việt Nam ngày càng
đông khi đế quốc Mỹ leo thang chiến tranh, dùng
không quân và hải quân đánh phá miền Bắc. Theo
một nguồn tài liệu từ Liên Xô, chỉ tính từ ngày 11
tháng 7 năm 1965 đến ngày 31 tháng 12 năm 1974,
Liên Xô đã cử 10.859 lượt chuyên gia quân sự, từ
chiến sĩ đến cấp tướng sang giúp Việt Nam xây dựng
lực lượng phòng không - không quân, chống chiến
tranh phá hoại của Mỹ. Trong quá trình công tác tại
Việt Nam, 13 người trong số đó đã hy sinh (4 người hy
sinh trong chiến đấu)[12].
3. Từ những cứ liệu về việc Liên Xô chi viện, giúp đỡ
Việt Nam trong thời kỳ Việt Nam chống Mỹ cứu nước,
có thể rút ra một số nhận xét:
Một là, cần phải khẳng định rằng, trong thời kỳ kháng
chiến chống Mỹ cứu nước, ở tất cả mọi giai đoạn, Việt
Nam luôn nhận được sự giúp đỡ cả về kinh tế, kỹ
thuật lẫn quân sự của Liên Xô. Điều đó đã chứng
tỏ, việc chi viện, giúp đỡ nhân dân Việt Nam thời kỳ
này là một chủ trương nhất quán trong đường lối đối
ngoại và chính sách đối ngoại của Chính phủ Xô Viết.
Mặc dù sự giúp đỡ đó, nhất là giúp đỡ về quân sự,
luôn bị chi phối bởi nhiều yếu tố, như: tình hình quốc
tế và tương quan lực lượng trên thế giới; chính sách
đối ngoại hoà bình của Liên Xô và chủ trương, giải
pháp cụ thể của giới lãnh đạo Xô Viết trong từng giai
đoạn lịch sử cụ thể, cũng như khả năng tiếp nhận và
sử dụng của Việt Nam… song nhìn chung, động thái
viện trợ Việt Nam của Liên Xô là thường xuyên, liên
tục và phát triển theo chiều hướng tích cực. Liên Xô từ
chỗ là “quan sát viên”, người đứng ngoài, gián tiếp tác
động vào tình hình Việt Nam trong những năm 1954-
1964, tiến tới công khai, trực tiếp viện trợ Việt Nam
từ năm 1965 về sau. Sự giúp đỡ đó đã có ý nghĩa vô
cùng to lớn đối với cách mạng Việt Nam, góp phần hỗ
trợ Đảng Cộng sản Việt Nam phát triển thế và lực,
thực hiện chính sách tập hợp lực lượng trong và
ngoài nước, hình thành sức mạnh tổng hợp cho cách
mạng. Chính vì vậy, khi đánh giá vai trò của tình hữu
nghị Xô - Việt, ngay từ năm 1955, Chủ tịch Hồ Chí
Minh đã khẳng định: “Tình hữu nghị giữa Liên Xô và
Việt Nam là một vấn đề hết sức quan trọng về phương
diện quốc tế. Tình hữu nghị đó là một nhân tố quan
trọng đảm bảo cho thắng lợi của nhân dân Việt Nam
đang đấu tranh giải phóng dân tộc và bảo vệ tổ
quốc”[13]. Mặc dù vậy, xuất phát phương châm tự lực
cánh sinh, dựa vào sức mình là chính, Chủ tịch Hồ Chí
Minh đã căn dặn các lực lượng cách mạng Việt Nam
là: “Tuyệt đối chớ vì bạn ta giúp nhiều mà sinh ra ỷ
lại”[14].
Hai là, trong lĩnh vực quân sự, cũng như thời kỳ
kháng chiến chống thực dân Pháp, viện trợ quân sự
của Liên Xô cho Việt Nam thời chống Mỹ không nhiều
lắm, chỉ chiếm 25,76% viện trợ chung của các nước xã
hội chủ nghĩa[15] - Trung Quốc, Ba Lan, Tiệp Khắc,
Rumani, Bungari, Hunggari, CHDC Đức, CHND Triều
Tiên và Cu Ba. Song điều quan trọng là những mặt
hàng quân sự mà Liên Xô viện trợ cho Việt Nam lúc
bấy giờ phần lớn là những vũ khí, khí tài chiến lược,
có tính dã chiến, tiến công cao, uy lực mạnh, như pháo
hoả tiễn, xe tăng, xe bọc thép đặc biệt là tàu chiến,
máy bay, tên lửa, cùng nhiều vật tư, khí tài khác phục
vụ cho công tác chỉ huy và tham mưu. Đó là những vật
tư, khí tài thiết yếu để Việt Nam phát triển các binh
chủng phòng không, không quân và hải quân, đẩy
nhanh quá trình xây dựng lực lượng vũ trang chính
quy hiện đại. Cùng với sự giúp đỡ hiệu quả trong lĩnh
vực kinh tế, viện trợ quân sự của Liên Xô đã góp phần
hỗ trợ Việt Nam tăng cường sức mạnh của nền quốc
phòng toàn dân và năng lực tác chiến của lực lượng
vũ trang nhân dân, giáng trả có hiệu quả các cuộc tập
kích bằng không quân, hải quân của Mỹ trên vùng
biển, vùng trời miền Bắc và đánh bại các chiến lược
quân sự của chúng ở miền Nam, giải phóng hoàn toàn
miền Nam, thống nhất đất nước.
Ba là, đi đôi với viện trợ vật chất, Liên Xô còn hỗ trợ
Việt Nam nguồn lực trí tuệ thông qua công tác đào
tạo cán bộ và đội ngũ chuyên gia, cố vấn Xô Viết trên
các lĩnh vực kinh tế, văn hóa và quân sự; vừa giúp Việt
Nam xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc; vừa giúp
xây dựng lực lượng vũ trang nhân dân chính quy hiện
đại. Theo đó, các tư tưởng về kinh tế, văn hoá; về khoa
học và nghệ thuật quân sự Xô Viết cũng được truyền
vào Việt Nam, góp phần hình thành đội ngũ cán bộ
mới trên tất cả các lĩnh vực và gia tăng thêm sức hấp
dẫn của “con đường Xô Viết”, cũng như “mô hình Xô
Viết’ ở Việt Nam. Cùng với sự giúp đỡ của Đảng, Chính
phủ Liên Xô, máu đào của các chiến sĩ - chuyên gia
quân sự Xô Viết đổ xuống miền Bắc Việt Nam trong
thời gian chống chiến tranh phá hoại của đế quốc Mỹ
đã tô thắm thêm tình hữu nghị Xô - Việt.
Sau sự kiện ngày 19 tháng 8 năm 1991, Liên Xô đi vào
tan rã. Nhưng những giúp đỡ hiệu quả, giàu tình
nghĩa quốc tế vô sản mà Đảng, Chính phủ và nhân dân
Liên Xô dành cho Việt Nam trong những năm Việt
Nam kháng chiến chống Mỹ, cứu nước đã in một dấu
ấn rất sâu đậm trong tâm trí mỗi người Việt Nam. Sự
giúp đỡ đó, như lời Hồ Chí Minh nhận định, là “thiên
kinh, địa nghĩa” mà các thế hệ người Việt Nam, với
tình cảm thủy chung luôn ghi nhớ. Cho dù thời thế có
đổi thay, song sự chia sẻ, giúp đỡ Việt Nam của Liên
Xô trong quá khứ là vô giá và không gì có thể so sánh
được.
Ngày nay, trong bối cảnh toàn cầu hoá, những thành
tựu đạt được và những kinh nghiệm quý báu từ sự
hợp tác Việt Nam - Liên Xô trong lịch sử và đường lối
đối ngoại rộng mở của Đảng Cộng sản Việt Nam,
muốn là bạn, là đối tác tin cậy của các nước trong
cộng đồng quốc tế đã và đang là điểm xuất phát quan
trọng để Việt Nam và Liên bang Nga tăng cường mối
quan hệ hữu nghị truyền thống hợp tác nhiều mặt phù
hợp với yêu cầu của đối tác chiến lược, phấn đấu vì
mục tiêu hoà bình, độc lập và phát triển trên một cơ
sở mới, lâu dài và cùng có lợi.
[1] Bài in trong Kỷ yếu Hội thảo khoa học Quốc
tế: “Xây dựng và thống nhất đất nước ở Việt Nam và
Đức, giai đoạn 1500-2000”, ĐHQG Hà Nội, 11/2009,
tr.149-157 - có sửa chữa, bổ xung.
[2] Xem, Việt Nam - Liên Xô 30 năm quan hệ (1950-
1980), Nxb. Ngoại giao Hà Nội, 1983.
[3] Các nước trong phe xã hội chủ nghĩa đã giúp
chúng ta từ năm 1955 đến nay, tr.1. Phòng lưu trữ Bộ
Thương mại.
[4] Tham khảo, Đặng Phong (Chủ biên), Lịch sử kinh
tế Việt Nam 1945-2000, Tập II: 1955-1975, Nxb.
KHXH, Hà Nội, 2005, tr.281; xem thêm, Phạm Quang
Minh, Quan hệ Việt Nam - Liên Xô trong kháng chiến
chống Mỹ (1954-1975), Tạp chí Lịch sử quân sự, số
205 (1/2009), tr.16.
[5] Nguồn: Các nước trong phe xã hội chủ nghĩa đã
giúp chúng ta từ năm 1955 đến nay, tlđd, tr.1. Xem
thêm: Sự hợp tác quốc tế giữa ĐCS Liên Xô và ĐCS
Việt Nam lịch sử và hiện tại. Nxb. ST, Hà Nội, 1987,
tr.309; cũng xem: Việt Nam - Liên Xô 30 năm quan hệ
(1950-1980), Nxb. Ngoại giao, Hà Nội, 1983, tr.57-60;
Bùi Công Trừng: Ý nghĩa viện trợ vô tư của Liên Xô và
cái gọi là “viện trợ Mỹ”, in trong: Cách mạng tháng
Mười và sự thành lập Đảng Cộng sản Đông Dương,
Nxb. ST, Hà Nội, 1957.
[6] Xem: Việt Nam - Liên Xô 30 năm quan hệ (1950-
1980), Sđd.
[7] Sự hợp tác quốc tế giữa ĐCS Liên Xô và ĐCS Việt
Nam lịch sử và hiện tại, Sđd, tr.324. Xem thêm, Đặng
Phong(Chủ biên), Lịch sử kinh tế Việt Nam 1945-
2000, Tập II: 1955-1975, Sđd, tr.474.
[8] Tham khảo: Đặng Phong (Chủ biên), Lịch sử kinh
tế Việt Nam 1945-2000, Tập II: 1955-1975, Nxb.
KHXH, Hà Nội, 2005, tr.483.
[9] Dẫn theo Phạm Quang Minh, Quan hệ Việt Nam -
Liên Xô trong kháng chiến chống Mỹ (1954-1975), Tạp
chí Lịch sử quân sự, số 205 (1/2009), tr.16. Cũng
xem: Sự hợp tác quốc tế giữa ĐCS Liên Xô và ĐCS Việt
Nam lịch sử và hiện tại, Sđd, tr.310.
[10] Xem: Trần Tiến Hoạt và Lê Quang Lạng: Nguồn
chi viện to lớn của Liên Xô, Trung Quốc và các nước
xã hội chủ nghĩa, Báo QĐND số 15791, thứ 4 ngày 13
thág 4 năm 2005, tr.2.
[11] Để tránh đối đầu với Mỹ, từ năm 1950, ngay sau
khi xác lập quan hệ ngoại giao với Việt Nam, Liên Xô
và Trung Quốc đã đi tới thoả thuận: tất cả mọi viện
trợ về quân sự của Liên Xô cho Việt Nam đều được
tiến hành thông qua Trung Quốc, do Trung Quốc điều
phối, với danh nghĩa là “sự giúp đỡ chung”. Tham
khảo: Sự thật về những lần xuất quân của Trung Quốc
và quan hệ Việt - Trung, Nxb. Đà Nẵng, 1996, tr.20.
Gần đây, nhà sử học Nga, TS. Anatoli Xocolov, thông
qua nguồn tài liệu lưu trữ của Bộ ngoại giao Nga
cũng đề cập và xác nhận xu hướng này. Xem Điện
Biên Phủ trong những bước đầu trên con đường
chung: Liên Xô và Việt Nam (1945-1954) - “50 năm
chiến thắng Điện Biên Phủ và sự nghiệp đổi mới phát
triển đất nước”, Nxb. KHXH, Hà Nội, 2004, tr.195.
[12] Xem Cao Đắc Trung, Chiến tranh Việt Nam là thế
đó (1965-1973), Tạp chí Lịch sử quân sự, số 205
(1/2009), tr.45. Nguồn tài liệu mà tác giả sử dụng còn
cho biết, trong thời gian từ 1965-1973, Liên Xô đã đào
tạo, huấn luyện, viện trợ cho Việt Nam 10 trung đoàn
tên lửa Phòng không, 2 trung đoàn Không quân tiêm
kích và 3 trung đoàn ra đa cảnh giới.
[13] Dẫn theo: Sự hợp tác quốc tế giữa ĐCS Liên Xô và
ĐCS Việt Nam lịch sử và hiện tại, Nxb. ST, Hà Nội,
1987, tr.333.
[14] Hồ Chí Minh: Toàn tập, Tập 8, Nxb. CTQG, Hà Nội,
2000, tr.30.
[15] Sách Chiến tranh cách mạng Việt Nam 1945-
1975 thắng lợi và bài học, Nxb. CTQG, H., 2000, tr.601
cho biết, viện trợ quân sự của các nước XHCN cho Việt
Nam trong kháng chiến chống Mỹ, cứu nước như sau:
giai đoạn 1955-1960: 49.585 tấn, bao gồm 4.105 tấn