Tải bản đầy đủ (.pdf) (13 trang)

BÁO CÁO KHOA HỌC: "NGHIÊN CỨU MỘT SỐ ĐẶC ĐIỂM SINH HỌC CỦA CÁC LOÀI NẤM TRONG PHÂN CHI COREMIOPLEUROTUS " docx

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (220.11 KB, 13 trang )

NGHIÊN CỨU MỘT SỐ ĐẶC ĐIỂM SINH HỌC CỦA
CÁC LOÀI NẤM TRONG PHÂN CHI
COREMIOPLEUROTUS
Trần Thị Lan, Trịnh Tam Kiệt
Trung tâm Công nghệ Sinh học, ĐHQG Hà Nội

I. MỞ ĐẦU

Nấm sò (Pleurotus spp.) là một nhóm nấm ăn quý không
những có tác dụng về mặt dinh dưỡng mà còn có tác dụng
chữa bệnh, hiện được nghiên cứu tập trung ở nhiều nước
trên thế giới, đặc biệt là ở các nước Đông Á. Sản lượng
nấm sò thời gian gần đây tăng tới 400 %. Theo Shukla và
Biswas (2000) việc nuôi trồng nấm sò đang phát triển rộng
rãi và thu lợi cao nhờ công nghệ đơn giản, nguồn cơ chất
phong phú [7]. Hơn nữa chúng có khả năng sinh trưởng và
phát triển ở những điều kiện môi trường nhiệt độ khí hậu
khác nhau và thời gian sinh trưởng khá ngắn [6, 8].

Ở Việt Nam, việc nuôi trồng nấm ăn nói chung và nấm sò
nói riêng đang được đẩy mạnh trong cả nước và là nguồn
thu nhập đáng kể trong quá trình chuyển đổi cơ cấu cây
trồng và vật nuôi. Tuy nhiên, chất lượng của nấm phụ thuộc
nhiều vào chủng loại, trong đó các đại diện thuộc phân chi
Pleurotus sinh bào tử vô tính (Coremiopleurotus Hilber) có
nhiều đặc tính quý báu, đặc biệt là hàm lượng đạm rất cao
[1, 5]. Chính vì thế việc nghiên cứu kỹ phân chi này có ý
nghĩa khoa học và thực tiễn lớn.

II. ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP


- Đối tượng: 3 chủng nấm sò thuộc phân chi
Coremiopleurotus Hilber của chi Pleurotus (Fr.) P.
Kummer, họ Lentinaceae bộ Polyporales, lớp
Basidoomycetes, ngành Basidiomycota [4] do Phòng Sinh
học phóng xạ - Viện nghiên cứu hạt nhân Đà Lạt cung cấp:

- Nguyên liệu: : Cơ chất sử dụng cho nấm trong môi trường
thuần khiết là khoai tây, glucose, agar. Nguồn cơ chất sử
dụng cho nuôi trồng nấm trên giá thể: mùn cưa cao su, mùn
cưa bồ đề và các chất phụ gia khác như cám ngô, cám gạo,
bột nhẹ,

- Phương pháp: Sử dụng các phương pháp nấm học trong
nghiên cứu hình thái quả thể, bào tử (theo T. T. Kiệt, 1981,
1986) và nghiên cứu tốc độ mọc của hệ sợi nấm (theo
Schwantes, 1971)

III. KẾT QUẢ VÀ THẢO LUẬN

1. Kết qủa nghiên cứu sự mọc của ba chủng

Tốc độ mọc hệ sợi nấm được tính theo Schwantes (1971):
V=X/T
Trong đó: + V: tốc độ mọc của hệ sợi (ỡm/giờ)
+ X: bán kính của bề mặt thạch(ỡm)
+ T: thời gian sợi nấm mọc kín bề mặt thạch(giờ).

* Trên môi trường thạch khoai tây:
Ở nhiệt độ khác nhau tốc độ mọc của chủng P. cys là nhanh
nhất, chậm nhất là chủng P.bl . Nhìn chung cả ba chủng

đều sinh trưởng và phát triển tốt ở 25
O
C. Ở nhiệt độ 30
o
C
thì tốc độ mọc của các chủng nghiên cứu đều chậm hơn ở
25
O
C, riêng hệ sợi P.bl thì bị kìm hãm sự sinh trưởng ở
nhiệt độ này. Kết quả được chỉ ra trong bảng 1:
Bảng 1: Tốc độ mọc của Coremiopleurotus spp. ở 25
O
C và
30
O
C trên môi trường
thạch khoai tây


Sau khi nghiên cứu tốc độ mọc của các chủng trên môi
trường nuôi cấy thuần khiết ở nhiệt độ khác nhau, chúng tôi
nhận thấy khả năng phát triển của hệ sợi rất tốt ở 25± 2
O
C .
Vì vậy trong nghiên cứu sự mọc của hệ sợi trên giá thể mùn
cưa chúng tôi chỉ quan tâm ở nhiệt độ 25± 2
O
C (Bảng 2)
Bảng 2: Tốc độ mọc hệ sợi Coremiopleurotus spp. trên giá
thể mùn cưa ở 25

o
C


Kết quả cho thấy, tốc độ mọc giữa ba chủng cũng có sự
chênh lệch khi chúng ở cùng một điều kiện nuôi trồng, tốc
độ mọc của P.cys là nhanh nhất 104,16 m/h và chậm nhất
là P.bl với tốc độ 85,16m/h.

2. Nghiên cứu đặc điểm hình thái bào tử vô tính, sự hình
thành quả thể và bào tử hữu tính

2.1. Hình thái bào tử vô tính:

Khác với các loài nấm sò khác, cả ba loài nấm sò thuộc
phân chi Coremiopleurotus Hilber đều có đặc tính chung là
trong quá trình sinh trưởng và phát triển có sự hình thành
những bó cuống đính bào tử vô tính mang bào tử đính ở
đỉnh. Chúng xuất hiện rất nhiều với mật độ tương đối dày
(hình 1).

Hình 1: Bào tử vô tính trên bó cuống đính bào tử ở
Coremiopleurotus spp. dưới kính hiển vi nổi và hiển vi điện
tử quét (x350)


Dưới kính hiển vi điện tử quét có độ phóng đại x5000, ta
thấy bào tử vô tính của cả ba chủng nghiên cứu có bề mặt
nhẵn, kích thước cũng gần như nhau không có sự khác biệt
rõ ràng. Chúng đều có hình dạng giống quả bí đao đều hai

đầu, màu đen, kích thước từ 10- 16,5 m chiều dài và 4-6,5
m chiều rộng (hình 2)

Hình 2: Bào tử vô ở Coremiopleurotus spp. dưới kính hiển
vi điện tử quét
ở độ phóng đại x5000.


2.2.Sự hình thành quả thể và bào tử hữu tính của các
chủng nghiên cứu:

Trên môi trường giá thể mùn cưa, sự hình thành quả thể
của ba chủng nghiên cứu tiếp tục được theo dõi . Sau thời
gian khoảng 36 - 43 ngày tuỳ từng chủng, khi hệ sợi phát
triển phủ kín bịch và bắt đầu bện kết tạo mầm quả thể
(primordia), các bịch được chuyển sang phòng nuôi có ánh
sáng khuyếch tán, độ ẩm gần như bão hoà, thông khí tạo
điều kiện thuận lợi cho nấm ra quả thể. Nhiệt độ tối thích
cho ra quả thể khoảng 25
O
C ± 2
0
C. Riêng P. blaoensis chỉ
hình thành quả thể thành thục vào các tháng mát và lạnh,
khi nhiệt độ không khí ở 16 - 22
o
C.

Đồ thị 1 cho thấy sự chênh lệch về thời gian trong từng
giai đoạn hình thành quả thể của ba chủng nghiên cứu là

không đáng kể. Nhìn chung thời gian để sợi mọc kín bịch
khoảng 36- 42 ngày, thời gian hình thành mầm mống quả
thể sau khi sợi mọc kín bịch khoảng 5- 7 ngày và hình
thành quả thể sau 5 ngày.

Đồ thị 1: Các giai đoạn hình thành quả thể của
Coremioplourotus spp.


Về mặt hình thái, quả thể của ba chủng nghiên cứu cũng
không có sự khác biệt rõ rệt. Quả thể dạng phễu với cuống
mọc lệch. Mũ nấm khi non có màu tím xám, sau chuyển
dần sang trắng ngà khi trưởng thành, hình dạng thay đổi từ
dạng phễu đến dạng sò, rộng khoảng 2 - 8 cm. Bào tầng
dạng phiến, màu trắng ngà có sắc thái vàng khi già. Tuy
nhiên, màu sắc nấm non của chủng P.bl thường có màu tím
đậm hơn hẳn so với hai chủng còn lại.

Hình 3: Quả thể Coremioplourotus spp. trên giá thể mùn
cưa


* Bào tử hữu tính: được hình thành từ quá trình hạch
giao trong đảm trên lớp sinh sản ở bề mặt của phiến. Sau
khi hai nhân kết hợp, phân chia hai lần, trong đó có một lần
giảm nhiễm cho bốn nhân đơn bội. Các nhân đơn bội đi ra
tiểu bính và hình thành bốn bào tử đính trên đầu tiểu bính
của các giá bào tử.

Hình 4: Sự hình thành bào tử hữu tính của

Coremioplourotus spp.


Bào tử hữu tính của ba chủng khi trưởng thành được
phóng ra dưới dạng bụi màu trắng. Dưới kính hiển vi chúng
có hình trụ - elíp, trong suốt, đạt kích thước 3 - 4 m x 7- 9
m, kích thước nhỏ hơn đáng kể so với bào tử vô tính.
Nhìn chung về mặt hình thái, bào tử hữu tính của ba chủng
không có sự khác biệt rõ ràng.

Hình 5: Bào tử hữu tính của ba chủng nghiên cứu dưới kính
hiển vi điện tử quét

(x 5000).

IV. KẾT LUẬN

1. Trên môi trường nuôi cấy thuần khiết, hệ sợi nấm của
ba chủng P.abalonus, P.aff. blaoensis và P.cystidiosus phát
triển tốt ở 25
0
C. Đặc biệt là chủng P.cystidiosus tốc độ mọc
đạt 130,21 m/h. Ở nhiệt độ 30
0
C, hệ sợi của chủng P.aff.
blaoensis phát triển kém.

2. Trên giá thể mùn cưa có bổ sung thêm dinh dưỡng, ở
25
0

C hệ sợi của cả ba chủng đều sinh trưởng tốt và có hình
thành quả thể. Riêng P. blaoensis chỉ hình thành quả thể
thành thục vào các tháng mát và lạnh, khi nhiệt độ không
khí ở 16 - 22
o
C.

3. Đặc điểm hình thái cuống đính bào tử vô tính của ba
chủng không có sự sai khác đáng kể. Bào tử vô tính có màu
đen, hình quả bí đao đều hai đầu, kích thước lớn từ 10-16,5
m chiều dài và 4-6,5 m chiều rộng.

4. Trên giá thể mùn cưa ở điều kiện thuận lợi, sau
khoảng 45-55 ngày cả ba chủng nghiên cứu đều hình thành
quả thể điển hình, dạng phễu lệch trong đó màu sắc quả thể
non của chủng P. blaoensis có tím hơn. Trên đảm (giá)
hình thành bốn bào tử trong suốt, hình trụ-elíp, kích thước
3-4m x7-9 m.

TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. Trần Hữu Độ, Lê Xuân Thám, (1999), Nghiên cứu khả
năng chuyển hoá các chất phế thải và nguyên tố khoáng của
nấm bào ngư [Pleurotus (Fr.) Kumer]. Luận án thạc sỹ Sinh
học, Đại học Đà Lạt.
2. Trịnh Tam Kiệt (1981), Nấm lớn ở Việt Nam. Nxb
Khoa học.
3. Trịnh Tam Kiệt và cộng sự (1986), Sinh học và kỹ
thuật nuôi trồng nấm ăn. Nxb Nông nghiệp.
4. Trịnh Tam Kiệt và các tác giả khác (2001), Danh lục

các loài thực vật Việt nam- Phần Nấm, Nhà xuất bản Nông
nghiệp , Hà nội 2001.
5. Bano, Z. and Rajarathnam, S., (1989), "Pleurotus
Mushroom. Biology nature cultivation methor", Edited by
Chang, S. T. & Quimio, T.H., The Chinese University
Press. Chapter 18: 363 -380.
6. Sangwan, M. S., & Saini, L. C. (1995). “Cultivation of
Pleurotus sajorcaju (Fr.) Singer on agro-industrial wastes".
Mushroom Research, 4, 33-34.
7. Shukla, C. S., & Biswas, M. K. (2000). “Evaluation of
different techniques for oystermushroom cultivation".
Journal of Mycology and Plant Patholoy, 30, 431- 435.
8. Zadrazil, F., & Dube, H. C. (1992). “The oyster
mushroom: importance and prospects". Mushroom
Research, 1, 25-32.
9. Schwantes, H. O. und Salttler, P. W., (1971),
"Methoden zur Messung der Wachstumsgeschwindigkeit
von Pilzmycelien". Oberhess. Naturwiss. Zeitschr. 38: 5-
18


SUMMARY

RESEARCHING BIOLOGICAL CHARACTERISTIC
OF SUBGENUS
Coremiopleurotus HILBER

Tran Thi Lan, Trinh Tam Kiet
Center of biotechnology, Vietnam national
University, Hanoi


The fungi Coremiopleurotus spp. is good growing in
pure culture medium potato- agar at 25
O
C, fastest in P.
cystidiosus with increasing speed 130,21 m/h. In sawdust
medium (at 25
O
C) the mycelium of Coremiopleurotus spp.
growing a litter better and developted to build fruits body
after 45- 55 days. Special, P. blaoensis is only able to build
fruits body at 16 - 22
o
C. Conidiospores are studied under
the scan electronic microscope with the black colour, waky
pumpkin shape, size (10-16,5) x (4-6,5) m . There are 4
basidospore on each basidie with elip shape, and size about
3-4 x7-9 m.

×