Tải bản đầy đủ (.pdf) (21 trang)

ĐIỀU TRI BỆNH CƠ TIM potx

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (219.63 KB, 21 trang )

ĐIỀU TRI BỆNH CƠ TIM

1. ĐỊNH NGHĨA: (THEO ESC-2008):
1.1. Bệnh cơ tim là những bệnh trong đó cơ tim bị bất thường về cấu trúc và
chức năng mà không có sự hiện diện của bệnh mạch vành, tăng huyết áp,
bệnh van tim hay bệnh tim bẩm sinh (hoặc có nhưng những bất thường này
không đủ giải thích tình trạng bệnh lý tại cơ tim).
1.2. Tuy nhiên, trong thực hành lâm sàng, ở một số nơi chẳng hạn như ở Bắc
Mỹ, thuật ngữ “bệnh cơ tim” còn được dùng để chỉ những bệnh có nguyên
nhân như: bệnh cơ tim tăng huyết áp, bệnh cơ tim thiếu máu cục bộ. Đây
được xem như những “bệnh cơ tim chuyên biệt” và không nằm trong phạm
vi đề cập của bài này.
2. NGUYÊN NHÂN VÀ PHÂN LOẠI:
Trước đây, người ta cho thường cho rằng bệnh cơ tim là bệnh vô căn, nghĩa là
thường không tìm được nguyên nhân. Ngày này, nhờ những tiến bộ vượt bậc
trong sinh hoá, di truyền và vi sinh học, nhiều nguyên nhân đã được xác định
như: đột biến gen có tính di truyền, độc chất, siêu vi, rối loạn chuyển hoá, một
số rối loạn về nội tiết, bệnh hệ thống, miễn dịch…. Tuy vậy, một số lớn trường
hợp vẫn chưa tìm được nguyên nhân.
Từ 1995, đến nay, đã có nhiều đề nghị khác nhau về việc định nghĩa và phân
loại bệnh cơ tim. Sau đây là phân loại theo đề nghị của Hội tim mạch châu Âu
2008:






Sự phân biệt là dựa vào cấu trúc và chức năng, gồm 5 nhóm trong đó, 3 nhóm
chính trên lâm sàng là bệnh cơ tim dãn, bệnh cơ tim phì đại và bệnh cơ tim hạn
chế.


2.1.1. Bệnh cơ tim dãn nở
2.1.2. Bệnh cơ tim phì đại
Bệnh cơ tim
BCT dãn
BCT phì đại BCT hạn chế
BCT thất phải
gây loạn nhịp
Không phân
loại
Gia đình/Di truyền Không gia đình/ Không di truyền
Khiếm khuyết gen
không nhận diện được
Các bệnh
dưới nhóm
Các bệnh
dưới nhóm
Vô căn
2.1.3. Bệnh cơ tim hạn chế
2.1.4. Bệnh loạn sản cơ tim thất phải gây loạn nhịp
2.1.5. Không xếp loại được
Mỗi nhóm lại được chia thành hai phân nhóm là thể gia đình (di truyền) và thể
không gia đình (không di truyền).
Một ca bệnh cơ tim được xem là thể gia đình khi có nhiều hơn 1 người trong
gia đình bị cùng loại bệnh và được gây ra cùng bởi 1 loại đột biến gen và
không phải là do bệnh cơ tim mắc phải hay do bệnh hệ thống (thường do đột
biến nhiều gen). Hầu hết bệnh cơ tim gia đình đều là rối loạn đơn gen.
Thể bệnh cơ tim không gia đình được định nghĩa về mặt lâm sàng khi chỉ có
một mình bệnh nhân bị trong gia đình. Nhóm này lại được chia làm 2 nhóm
nhỏ là nhóm vô căn (không xác định được nguyên nhân) và nhóm bệnh cơ tim
mắc phải.

3. LÂM SÀNG VÀ CHẨN ĐOÁN:
Biểu hiện của bệnh cơ tim rất đa dạng. Bệnh có thể phát hiện vì những biểu hiện
của suy tim tâm trương hay tâm thu, loạn nhịp, ngất, hay huyết khối thuyên tắc
hay bệnh nhân chưa có triêu chứng lâm sàng nhưng trên siêu âm tim tình cờ phát
hiện rối loạn chức năng thất. Việc chẩn đoán cần hỏi kỹ bệnh sử, tiền sư gia đình,
khám lâm sàng. Các xét nghiệm cần làm gồm những xét nghiệm cơ bản như ECG,
Xquang ngực, siêu âm tim, thông tim và chụp mạch vành để loại trừ bệnh mạch
vành trong trường hợp bệnh cơ tim dãn, các xét nghiệm hình ảnh học khác như
MRI, cùng các xét nghiệm sinh hoá, miễn dịch, di truyền tuỳ theo bối cảnh của
từng bệnh nhân. Trong một số trường hợp, đặc biệt với bệnh cơ tim hạn chế, cần
tiến hành sinh thiết nội mạc cơ tim. Trong số các xét nghiệm, siêu âm tim là xét
nghiệm đơn giản, rất hữu ích để giúp đánh giá, phân loại, và theo dõi bệnh cơ tim.
4. ĐIỀU TRỊ BỆNH CƠ TIM: Điều quan trọng đầu tiên trước khi điều trị là cố
gắng tìm cho được những nguyên nhân có thể điều trị được.
4.1. BỆNH CƠ TIM DÃN NỞ:
4.1.1. Sơ lược về sinh lý bệnh, lâm sàng, chẩn đoán:
 Đây là loại bệnh cơ tim thường gặp nhất vì diễn tiến cuối cùng
của các nhóm bệnh cơ tim khác cũng như các bệnh cơ tim
chuyên biệt đều trở thành bệnh cơ tim dãn.
 Dù còn nhiều trường hợp không xác định được nguyên nhân,
bệnh cơ tim dãn thường có tính di truyền gia đình, hay là hậu quả
của tình trạng tổn thương cơ tim do độc chất, do bệnh nhiễm hay
bệnh chuyển hoá. Một số trường hợp bệnh cơ tim dãn là hậu quả
trễ của tình trạng viêm cơ tim cấp do siêu vi. Ngoài ra, còn có
một số trường hợp bệnh cơ tim dãn có thể hồi phục được: bệnh
cơ tim do rượu, do cocaine, do bệnh tuyến giáp, bệnh cơ tim chu
sinh, bệnh cơ tim do nhịp nhanh mãn tính
 Đặc trưng của bệnh cơ tim dãn là thất trái và hoặc thất phải dãn
lớn kèm suy giảm chức năng tâm thu.
 Biểu hiện lâm sàng gồm những triệu chứng của suy tim trái, suy

tim phải. Trong một số trường hợp, triệu chứng chỉ xuất hiện sau
khi thất đã dãn nhiều tháng hay nhiều năm trước đó. Ngoài ra,
còn có thể ngất do loạn nhịp. Biến chứng do thuyên tắc huyết
khối cũng không phải hiếm.
4.1.2. Cận lâm sàng:
 Xquang phổi cho thấy bóng tim lớn, kèm tăng tuần hoàn phổi thụ
động.
 ECG: nhịp xoang nhanh, rung nhĩ hay loạn nhịp thất, biến đổi
ST, T không đặc hiệu, điện thế thấp, bloc nhĩ thất
 Siêu âm tim, chụp cắt lớp hay cộng hưởng từ cho thấy thất trái
dãn, thành thất mỏng, bình thường hay dày nhẹ với chức năng
tâm thu giảm.
 Cần tiến hành thông tim và chụp mạch vành để loại trừ bệnh
mạch vành. Tuy nhiên, cần thận trọng vì một số trường hợp sẽ bị
suy tim mất bù sau chụp.
 Sinh thiết nội mạc cơ tim thường không cần tiến hành trừ khi cần
chẩn đoán amyloidosis hay viêm cơ tim cấp.
 Đa số những ca bệnh cơ tim dãn nở có dự hâu xấu: Bệnh diễn
tiến xấu dần và thường tử vong trong vòng 4 năm kể từ khi khởi
phát tirêu chứng, đặc biệt nếu bệnh nhân >55 tuổi hay là người
gốc Phi. Trong khoảng ¼ trường hợp, bệnh tự ổn định trong một
thời gian dài. Bênh tử vong do suy tim tiến triển hay do loạn nhịp
thât nhanh hay chậm gây đột tử. Ngoài ra, các biến chứng do
huyết khối thuyên tắc cũng góp phần gây tử vong.
4.1.3. Điều trị
4.1.3.1. Điều trị nguyên nhân nếu có vd: ngưng rượu, điều trị nhịp tim
nhanh.
4.1.3.2. Điều trị triệu chứng Việc điều trị bao gồm các bước giống
như trong điều trị suy tim thông thường (xem thêm bài Điều trị
suy tim). Trong đó, chú ý đến các thuốc có thể kéo dài đời sống

người bệnh: ức chế men chuyển, chẹn thụ thể angiotensin II, ức
chế bêta và spironolactone. Nên tránh sử dụng các thuốc như chẹn
kênh canxi, kháng viêm không steroid. Đối với biến chứng loạn
nhịp thất, người ta nhận thấy rằng việc sử dụng các thuốc chống
loạn nhịp không những không có lợi mà còn có thể tăng nguy cơ
loạn nhịp do thuốc. Có thể dùng thêm các phương thức khác như
đặt máy tạo nhịp 3 buồng (tái đồng bộ thất) để cải thiện chức
năng thất cùng với đặt máy phá rung để điều trị các loạn nhịp thất
có thể gây đột tử. Cuối cùng, cần xem xét việc ghép tim trên
những bệnh nhân bị suy tim tiến triển và kháng trị với các phương
thức điều trị khác. Để phòng ngừa biến chứng huyết khối thuyên
tắc, cần cho bệnh nhân sử dụng thuốc kháng đông. Dĩ nhiên là
điều này cần phải tính đến những yếu tố khác như: tuổi tác, bệnh
lý đi kèm, sự tuân thủ điều trị và khả năng theo dõi định kỳ.
4.2. BỆNH CƠ TIM PHÌ ĐẠI:
4.2.1. Sơ lược về sinh lý bệnh, lâm sàng, chẩn đoán
 Bệnh cơ tim phì đại là bệnh được đặc trưng bởi tình trạng dày lên
của thất trái mà không có nguyên nhân rõ ràng nào như hẹp van
động mạch chủ hay tăng huyết áp.
 Bệnh có tính di truyền: hơn phân nửa số bệnh nhân có tiền sử gia
đình cò người bị bệnh, và di truyền theo nhiễm sắc thể trội.
 Hai đặc điểm chính của bệnh là tình trạng dày không đối xứng
của thất trái (thường vách liên thất dày nhiều nhất) và sư thay đổi
động học của độ chênh áp tại buồng tống thất trái.
 Đặc điểm sinh lý bệnh quan trọng nhất của bệnh là rối loạn chức
năng tâm trương, gia tăng áp lực cuối tâm trương của thất trái.
 Biểu hiện lâm sàng của bệnh cơ tim phì đại rất thay đổi. Nhiều
bệnh nhân không triệu chứng hay triệu chứng nhẹ và thường có
tiền sử gia đình có người thân đã phát hiện bệnh. Tuy nhiên, đôi
khi biểu hiện đầu tiên của bệnh lại là đột tử xảy ra trong hay sau

gắng sức. Triệu chứng thường gặp nhất là khó thở, chủ yếu liên
quan đến rối loạn chức năng tâm trương, làm giảm đổ đầy thất,
làm tăng áp lực cuối tâm trương thất trái, tăng áp lực nhĩ trái và
áp lực tĩnh mạch phổi. Những biểu hiện khác bao gồm ngất, đau
ngực và mệt. Điểm đặc trưng khi khám lâm sàng là phát hiện âm
thổi tâm thu thô ráp, hình quả trám, nghe rõ ở vùng dưới bờ trái
ức và mỏm tim.
 Chẩn đoán chủ yếu dựa vào siêu âm tim cho thấy dày thất trái với
bề dày vách liên thất ≥1,3 thành sau thất trái. Ngoài ra còn phát
hiện cử động “SAM” (lá trước van hai lá đi ra trước về phía vách
liên thất phì đại trong thì tâm thu). Chụp cộng hưởng từ tim giúp
định lượng chính xác vùng phì đại và xơ hoá.
 Diễn tiến bệnh rất thay đổi dù nhiều bệnh nhân không triệu
chứng. Rung nhĩ thường xuất hiện trong giai đoạn sau của bệnh
và thường làm triệu chứng bệnh nặng thêm. Khoảng 5-10%
trường hợp sẽ diễn tiến thành bệnh cơ tim dãn với suy giảm chức
năng tâm thu nặng và hết chênh áp trong buồng thất. Những
trường hợp này có thể diễn tiến thành suy tim kháng trị và cần
phải ghép tim. Nguyên nhân tử vong chính của bệnh cơ tim phì
đại là đột tử, vốn có thể xảy ra trên bệnh nhân chưa từng có triệu
chứng hay trong giai đoạn ổn định của bệnh nhân có triệu chứng.
4.2.2. Điều trị
4.2.2.1. Phòng ngừa đột tử
4.2.2.1.1. Hạn chế hoạt động thể lực. Nên tầm soát bệnh cơ tim phì
đại trước khi chơi thê thao, đặc biệt trên những người đã có
tiền sử gia đình bằng siêu âm tim mỗi 12-24 tháng trong lứa
tuổi từ 12-20.
4.2.2.1.2. Máy phá rung
 Để phòng ngừa đột tử do loạn nhịp thất , việc gắn máy phá
rung đã được chứng minh là có hiệu quả trong cả phòng ngừa

thứ phát (sau khi bênh nhân đã từng bị ngưng tim một lần) lẫn
tiên phát.
 Chỉ định đặt máy phá rung khi bệnh nhân thuộc diện nguy cơ
cao đột tử tức là khi có ít nhất 1 trong các yếu tố nguy cơ sau:
o Đã từng được hồi sinh tim phổi
o Ngất tái phát
o Xuất hiện nhịp nhanh thất trên điện tâm đồ theo dõi
liên tục hay khi thăm dò điện sinh lý
o Dày thất trái quan trọng ( vách liên thất dày trên
30mm)
o Huyết áp không tăng lên khi gắng sức
o Tiền sử gia đình có người bị đột tử
o Một số trường hợp đột biến gen
4.2.2.1.3. Phòng ngừa bằng thuốc : Ngày nay, người ta đã nhận thấy
việc phòng ngừa bằng thuốc cho bênh nhân không triệu
chứng nhưng thuộc nhóm nguy cơ cao bị đột tử các thuốc
như amiodarone, ức chể bêta, ức chế canxi tỏ ra không hiệu
quả. Hơn nữa, việc sử dụng amiodarone sẽ gây tác dụng phụ
khi dùng lâu dài trên những bệnh nhân trẻ.
4.2.2.2. Điều trị suy tim: Bệnh nhân bị bênh cơ tim phì đại sẽ biểu
hiện suy tim theo 2 cách khác nhau đòi hỏi việc điều trị phù hợp
tuỳ trường hợp:
4.2.2.2.1. Trường hợp thường gặp nhất là khó thở khi gắng sức và
mệt do tăng áp tĩnh mạch phổi trong khi chức năng tâm thu
bình thường hay thậm chí hơi tăng. Những triệu chứng này là
do rối loạn chức năng tâm trương, do tắc nghẽn buồng tống
thất trái hay thiếu máu vi mạch cơ tim. Các thuốc được sử
dụng bao gồm:
 Ức chế bêta: cải thiện triệu chứng bằng cách làm chậm nhịp
tim, làm giảm sức co bóp thất trái, làm tăng thư dãn và đổ đầy

thất trái đồng thời làm giảm tiêu thụ oxy của cơ tim. Ngoài ra,
do làm ức chế kích thích giao cảm lên tim, ức chế bêta còn có
khả năng làm giảm sự gia tăng độ chênh áp ở buồng tống thất
trái xảy ra khi gắng sức.
 Verapamil: làm cải thiện triệu chứng và khả năng gắng sức
trên những bệnh nhân không bị tắc nghẽn buồng tống thất trái
quan trọng. Đó là do thuốc làm cải thiện thư giãn và đổ đây
thất trái. Tuy nhiên, việc dùng thuốc này trên những bênh
nhân bị tắc nghẽn buồng tống thất trái nặng hay có tăng áp
tĩnh mạch phổi nặng thì có thể gây ra phù phổi cấp hay đột tử.
 Dysopyramide: là lựa chọn thứ 3 (phối hợp với ức chế bê ta)
để cải thiện triệu chứng khi những thuốc khác tỏ ra không
hiệu quả. Ngoài ra, thuốc này có vẻ không làm tăng nguy cơ
chứng loạn nhịp trên bệnh cơ tim phì đại.
 Lợi tiểu: có thể dùng một cách thận trọng đơn lẻ hay kèm với
ức chế bêta hay verapamil để làm giảm xung huyết phổi, giảm
áp lực đổ đầy thất trái và triệu chứng.
4.2.2.2.2. Trường hợp thứ hai là khi bệnh tiến triển thành bệnh cơ
tim dãn với chức năng tâm thu đã suy giảm nặng. Việc điều
trị giống như điều trị suy tim xung huyết do nhiều nguyên
nhân thông thường khác thường khác (xem thêm bài Điêu trị
suy tim): bao gổm ức chế bêta, ức chế men chuyến hay đối
kháng thụ thể angiotensin II, spironolactone, lợi tiếu và có
thể cả digoxin cũng như kháng đông. Bệnh nhân ở giai đoạn
cuối này có nguy cơ bị đột tử nên cần xem xét chỉ định gắn
máy phá rung phòng ngừa như là một bước chuyển tiếp cho
việc ghép tim.
4.2.2.3. Điều trị rung nhĩ: Đây là biến chứng loạn nhịp kéo dài thường
gặp nhất trong bệnh cơ tim phì đại. Tần suất này gia tăng theo
tuổi và liên quan đến kích thước của nhĩ trái. Rung nhĩ kịch phát

có thể gây suy tim mất bù khiến phải chuyển nhịp khẩn bằng sốc
điện hay bằng thuốc. Hơn nữa, rung nhĩ còn góp phần làm suy tim
tiến triển, và tăng nguy cơ bị huyết khối thuyên tắc (với tần suất
lưu hành nhũn não do lấp mạch là 6%/năm, tần suất mới mắc là
1%/năm). Hiện nay, dù dữ liệu chưa đầy đủ lắm, amiodarone vẫn
được coi là thuốc có hiệu quả làm giảm tái phát rung nhĩ. Đối với
rung nhĩ mãn thì thường ức chế bêta và verapamil đủ để kiểm soát
tần số thất, ít khi phải cần đến việc đốt nút nhĩ thất và đặt máy tạo
nhịp. Ngoài ra, cần xem xét việc sử dụng kháng đông cho những
bệnh nhân này.
4.2.2.4. Những phương thức điều trị khác
4.2.2.4.1. Phẫu thuật cắt bớt vách liên thất: thường được chỉ định
cho bệnh nhân suy tim nặng kháng trị với thuốc (NYHA III-
IV) kèm với tắc nghẽn nặng buống tống thất trái (với độ
chênh áp khi nghỉ hay khi gắng sức sinh lý ≥ 50mmHg).
Những nghiên cứu dài hơi đã cho thấy đây là phương thức
điều trị khá tốt: giảm triệu chứng trong 85% bệnh nhân sau
25 năm với tỷ lệ sống còn sau phẫu thuật 10 năm là 83%.
4.2.2.4.2. Làm mỏng vách liên thất bằng cồn: bơm 1-3ml cồn 96-98
độ vào động mạch xuyên của vách liên thất để gây nhồi máu
vách liên thấtmỏng bớt vách liên thất giảm chênh áp,
giảm tắc nghẽn buồng tống thất trái và giảm triệt chứng. Ưu
điểm của phương pháp này là ít xâm lấn hơn so với phẫu
thuật. Tuy nhiên, hiện chỉ có những nghiên cứu theo dõi
ngắn hạn (sau 2,3 năm) cho thấy kết quả tốt.
4.2.2.5. Phòng ngừa viêm nội tâm mạc nhiễm trùng: Viêm nội tâm
mạc nhiễm trùng chủ yếu xảy ra ở bệnh nhân bệnh cơ tim phì đại
có tắc nghẽn. Sùi thường nằm ở lá trước van hai lá hay vách liên
thất ngay chỗ tiếp giáp của lá van này và vách liên thất. Hiện nay
theo khuyến cáo hiệp hội Tim mạch Châu Âu 2009, chỉ cần cho

kháng sinh dự phòng trước khi nhổ răng hay tiến hành các phẫu
thuật khác trên các bn đã từng có viêm nội tâm mạc nhiễm trùng
từ trước.
4.3. BỆNH CƠ TIM HẠN CHẾ
4.3.1. Sơ lược về sinh lý bệnh
 So với 2 bệnh cơ tim dãn và bệnh cơ tim phì đại thì bệnh cơ tim
hạn chế ít gặp hơn. Bệnh cơ tim hạn chế được xác định khi có
hạn chế đổ đầy thất trong khi thể tích tâm trương bình thường
hay giảm (của 1 hay 2 tâm thất) với chức năng tâm thu bình
thường hay giảm và bề dày thành thất bình thường.
 Đặc điểm chính của bệnh cơ tim hạn chế là rối loạn chức năng
tâm trương do thành thất quá cứng, làm hạn chế sư đổ đầy tâm
trương của thất. Trong giai đoạn sau, chức năng tâm thu của thất
cũng sẽ suy giảm.
 Thành thất bị quá cứng là do tình trạng xơ hoá cơ tim, phì đại
hay thâm nhiễm trong nhiều bệnh khác nhau. Bệnh có thể vô căn,
có tính gia đình hay là hậu quả của những bệnh hệ thống như:
amyloidosis, sarcoidoisis, bệnh tim carcinoid, xơ cứng bì hay do
nhiễm độc anthracycline. Ngoài ra, những bệnh lý về nội mạc
(xơ hóa, xơ sợi hóa, huyết khối) cũng gây ra bệnh cơ tim hạn chế.
4.3.2. Biểu hiện lâm sàng:
Do thất không thể đổ đầy hoàn toàn nên cung lượng tim bị giảm và tăng áp
lực đổ đầy thất. Vì thế, triệu chứng chính là khó thở và giảm khả năng gắng
sức. Do áp lực tĩnh mạch hệ thống tăng thường trực nên bệnh nhân thường
bị phù, báng bụng, gan to và đập theo nhịp tim. Áp lực tĩnh mạch cảnh luôn
cao và không giảm trong thì hít vào (dấu Kussmaul). Tiếng tim hơi mờ, có
thể nghe T3, T4. Nói chung, bệnh cảnh lâm sàng khá giống viêm màng
ngoài tim co thắt ngoại trừ việc mỏm tim dễ sờ thấy hơn ở bệnh cơ tim hạn
chế.
4.3.3. Cận lâm sàng:

 ECG : trên những ca bệnh cơ tim thâm nhiễm, có thể có hình ảnh
điện thế thấp, biến đổi không đặc hiệu của ST, T
 Xquang ngực thì không phát hiện canxi hoá màng ngoài tim.
 Siêu âm tim, CT scan, và MRI cho thấy dày đồng tâm thất, chức
năng tâm thu bình thường hay giảm nhẹ. Siêu âm doppler cho
thấy rối loạn chức năng tâm trương
 Thông tim: giảm cung lượng tim, tăng áp lực cuối tâm trương
của hai thất, hình ảnh “căn số cổ điển” trong thì tâm trương của
biểu đồ áp lực tâm thất .
 Cần phân biệt bệnh cơ tim hạn chế với viêm màng ngoài tim co
thắt vì bệnh viêm màng ngoài tim co thắt có thể điều trị được
bằng phâu thuật. Việc chẩn đoán phân biệt dựa vào sinh thiết nội
mạc cơ tim (cho thấy hình ảnh thâm nhiễm hay xơ hoá trong
bệnh cơ tim hạn chế) và bằng chụp CT hay MRI (cho thấy dày
màng tim trong viêm màng ngoài tim co thắt).
4.3.4. Điều trị:
4.3.4.1. Điều trị nguyên nhân: hiện chưa có phương thức điều trị nào
hiệu quả ngoại trừ hai bệnh cảnh bệnh cơ tim nhiễm sắt (bằng
cách thải săt và bệnh Fabry (bệnh cơ tim do thiếu men alpha
lysosomal galactoside A, điều trị bằng bổ sung men). Vì thế, dự
hậu của bệnh cơ tim hạn chế thường xấu.
4.3.4.2. Điều trị triệu chứng:
 Nếu bệnh nhân có biểu hiện của suy tim phải nhiều: điều trị chủ ỵếu
bằng lợi tiểu dù rất thận trọng. Cần phối hợp lợi tiểu mất kali (vd:
furosemide) với lợi tiểu đối kháng aldosterone (spironolactone,
eplerenone) với liều từ thấp đến cao để kiểm soát suy tim, phù ngoại
vi và cố chướng. Cần tránh giảm khối lượng tuần hòan nhanh và
mạnh.
 Nêu bệnh tiến triển theo kiểu giảm chức năng tâm thu: điều trị như
những trường hợp suy tim khác. Cần chý ý hạn chế sử dụng digoxin

vì dễ ngộ độc, đặc biệt là bệnh amyloidosis. Các thuốc dãn mạch nếu
kết hợp với lợi tiểu cần thận trọng vì nguy cơ tụt huyết áp.
 Cần xem xét cho dùng kháng đông vì huyết khối trong buồng tim
cũng thường có thể có.
 Nếu có rối loạn dẫn truyền thì nên đặt máy tạo nhịp. Trong một số
trường hợp loạn nhịp thất, cần xem xét chỉ định đặt máy phá rung
4.3.5. Bệnh cơ tim do quá tải sắt (hemochromatosis):
4.3.5.1. Bệnh thường là hậu quả của việc truyền máu nhiều lần hay do
bệnh hemoglobin, thuờng nhất là bêta thalassemie. Thể gia đình
(nhiễm sắc thể lặn) nên được nghĩ đến khi có bệnh cơ tim kèm đái
tháo đường, xơ gan và tăng sắc tố da. Việc chẩn đoán dựa vào
sinh thiết nội mạc cơ tim.
4.3.5.2. Điều trị bao gồm:
4.3.5.2.1. Trích huyết: có thể hiệu quả nếu áp dụng trong giai đoạn
sớm của bệnh.
4.3.5.2.2. Dexferoxamine truyền liên tục dưới da hay những chất
trao đổi sắt khác giúp làm giảm dư trữ sắt và cải thiện lâm
sàng
4.4. BỆNH LOẠN SẢN CƠ THẤT PHẢI GÂY LOẠN NHỊP TIM
4.4.1. Đây là một bệnh có tính gia đình. Bệnh đặc trưng bởi tình trạng mô
cơ tim thất phải bị thay thế dần bằng mô sợi mỡ, thất trái cũng có thể
bị nhưng mức độ ít hơn. Bệnh di truyền theo nhiễm sắc thể trội, trong
đó có đột biến những gen mã hoá cho việc hình thành các proteine tạo
nên desmosome. Đây là cấu trúc giúp duy trì sư tiếp xúc bình thường
giữa các tế bào. Khi desmosone bất thường thì các tế bào cơ tim bị
tách rời ra, vì thế bị chết dần và bị thay thế bằng mô sợi mỡ.
4.4.2. Triệu chứng lâm sàng thường xuất hiện ở độ tuổi 20, với những dấu
hiệu của suy thất phải: tĩnh mạch cổ nổi, gan to, phù. Ngoài ra, bệnh
nhân còn có thể tử vong do loạn nhịp thất
4.4.3. ECG điển hình cho thấy QRS dãn rộng ở những chuyển đạo trước

ngực bên phải, nhanh thất dạng blốc nhánh trái. Chụp cắt lớp và chụp
cộng hưởng từ tim cho thấy dãn, phình thất phải và mô mỡ.
4.4.4. Điều trị bao gồm hạn chế vận động thể lực. Một số thuốc chống loạn
nhịp như ức chế bêta hay amiodarone có thể hữu ích. Đôi khi, cần gắn
máy phá rung. Trong trường hợp suy tim phải kháng trị, cần xem xét
việc ghép tim.
5. Kết luận
Bệnh do nhiều nguyên nhân như di truyền, nhiễm, độc chât, rối loạn chuyển hoá,
nột tiết. Mặc dù vậy, nhiều trường hợp vẫn chưa tìm đựơc nguyên nhân. Bệnh có 3
nhóm chính là bệnh cơ tim dãn, bệnh cơ tim phì đại và bệnh cơ tim hạn chế. Điều
quan trọng đầu tiên trước khi điều trị là cố gắng tìm cho được những nguyên có
thể điều trị được. Việc điều trị bệnh hiện nay vẫn chủ yếu là điều trị triệu chứng.
Hy vọng trong tương lai, với những tiến bộ về di truyền và miễn dịch học, các
nguyên nhân của bệnh cơ tim sẽ được hiểu rõ hơn. Và nhờ thế, sẽ có những
phương thức điều trị triệt để, phù hợp hơn; chẳng hạn như liệu pháp tế bào gốc hay
dùng thuốc kháng siêu vi trong bệnh cơ tim do siêu vi.
6. TÀI LIỆU THAM KHẢO
6.1. Cooper LT, McKenna WJ, Yeon SB. Definition and classification of the
cardiomyopathies. In: UpToDate, Basow, DS (Ed), UpToDate, Waltham,
MA, 2008.
6.2. Elliott, P., Andersson, B., Arbustini, E., Bilinska, Z., Cecchi, F., Charron,
P., et al. (2008), "Classification of the cardiomyopathies: a position
statement from the european society of cardiology working group on
myocardial and pericardial diseases". European Heart Journal, 29(2), 270-
276
6.3. Endorsed by the European Society of Clinical, M., Infectious, D., by the
International Society of Chemotherapy for, I., Cancer, Authors/Task Force,
M., Habib, G., et al. (2009), "Guidelines on the prevention, diagnosis, and
treatment of infective endocarditis (new version 2009)". European Heart
Journal, 30(19), 2369-2413

6.4. Fauci, A. S. (2008). Harrison's principles of internal medicine / editors,
Anthony S. Fauci [et al. ] (17th ed. ). McGraw-Hill Medical: New York
6.5. Libby, P. & Braunwald, E. (2008). Braunwald's heart disease: a textbook
of cardiovascular medicine (8th ed. ). Saunders/Elsevier: Philadelphia.
6.6. Phạm Nguyễn Vinh. Bệnh cơ tim dãn nở, bệnh cơ tim phì đại và bệnh cơ
tim hạn chế. Trong Siêu âm tim và bệnh lý tim mạch. Phạm Nguyễn Vinh.
Nhà xuất bản Y học. TP Hồ Chí Minh 2008.


×