Tải bản đầy đủ (.pdf) (13 trang)

Chiến dịch đánh Tống 1075 - phần 2 pptx

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (157.06 KB, 13 trang )

Hùng Vương mười tám chi
rong Việt Nam sử lược, Trần Trọng Kim viết: «
Họ Hồng Bàng làm Vua được 18 đời », đến năm
Quý Mão (258 trước TL) thì bị nhà Thục lấy mất
nước.



Xét từ đời Kinh Dương Vương đến đời Hùng
Vương thứ 18, cả thảy 20 ông Vua mà tính từ năm
Nhâm Tuất (2879) đến năm Quý Mão (258 tr TL)
thì vừa được 2622 năm. Cứ tính hơn bù kém, mỗi
ông Vua trị vì được non 150 năm. Dẫu là người
đời Thượng cổ nữa, thì cũng khó lòng mà có nhiều
người sống lâu được như vậy.



Để giải đáp nghi vấn trên, xin được trình bày tài
liệu của Cụ Biệt Lam Trần Huy Bá được in trong
tạp chí “Nguồn Sáng“ số 23 trong dịp lễ Hội Giỗ
Tổ Hùng Vương 1998.



Từ nhiều năm nay, chúng tôi đã cố gắng sưu tầm
các truyền thuyết, thư tịch cổ, các ngọc phả các xã
quanh vùng có đền thờ các Vua Hùng như xã Hy
Cương (Vĩnh Phú) hiện lưu trữ tại Vụ bảo tồn bảo
tàng, Bộ Văn Hóa (số hiệu HTAE 9) thì các tài liệu
này không ghi chép là 18 đời Vua Hùng mà lại ghi


là 18 chi. Mỗi chi gồm nhiều đời Vua, có cả năm
Can, Chi lúc sinh và lúc lên ngôi.



Các đời Vua trong một chi đều lấy hiệu của Vua
đầu chi ấy.



Mười tám chi ấy như sau:



1. Chi Càn: Kinh Dương Vương, húy Lộc Tục, tức
Lục Dục Vương, sinh năm Nhâm Ngọ (2919 tr.
TL) lên ngôi năm 41 tuổi, không rõ truyền được
mấy đời vua, ở ngôi tất cả 86 năm, từ năm Nhâm
Tuất (2879 tr.TL) đến Đinh Hợi (2794 tr. TL) so
ngang với Trung Quốc vào thời đại Tam Hoàng
(?).



2. Chi Khảm: Lạc Long Quân, húy Sùng Lãm, tức
Hùng Hiền Vương, sinh năm Bính Thìn (2825 tr.
TL), lên ngôi 33 tuổi, không rõ truyền mấy đời
vua. Chi này ở ngôi tất cả 269 năm, đều xưng là
Hùng Hiền Vương, từ năm Mậu Tý (2793 tr. TL)
đến năm Bính Thìn (2525 tr. TL). Ngang với

Trung Quốc vào thời Hoàng Đế (Ngũ Đế).



3. Chi Cấn: Hùng Quốc Vương, húy Hùng Lân,
sinh năm Canh Ngọ (2570 tr. TL) lên ngôi khi 18
tuổi, không rõ truyền được mấy đời vua, đều xưng
là Hùng Quốc Vương, từ năm Đinh Tỵ (2524 tr.
TL). Ngang với Trung Quốc vào thời Đế Thuấn,
Hữu Ngu.



4. Chi Chấn: Hùng Hoa Vương, húy Bửu Lang,
không rõ năm sinh, lên ngôi năm Đinh Hợi (2254
tr. TL), không rõ truyền được mấy đời vua đều
xưng là Hùng Hoa Vương, ở ngôi tất cả 342 năm,
từ năm Đinh Hợi (2254 tr. TL) đến năm Mậu Thìn
(1918 tr. TL). Ngang với Trung Quốc vào thời Đế
Quýnh nhà Hạ.



5. Chi Tốn: Hùng Hy Vương, húy Bảo Lang, sinh
năm Tân Mùi(2030 tr. TL), lên ngôi khi năm 59
tuổi. Không rõ truyền được mấy đời vua, đều
xưng là Hùng Hy Vương ở ngôi tất cả 200 năm, từ
năm Kỷ Tỵ (1912 tr. TL) đến Mậu Tý (1713 tr.
TL). Ngang với Trung Quốc vào thời Lý Quý
(Kiệt) nhà Hạ.




6. Chi Ly: Hùng Hồn Vương, húy Long Tiên
Lang, sinh năm Tân Dậu (1740 tr. TL), lên ngôi
khi 29 tuổi, truyền 2 đời vua, ở ngôi tất cả 81 năm
đều xưng là Hùng Hồn Vương, từ năm Kỷ Sửu
(1712 tr. TL) đến năm Kỷ Dậu (1632 tr. TL).
Ngang với Trung Quốc vào thời -c Đinh nhà
Thương.



7. Chi Khôn: Hùng Chiêu Vương, húy Quốc Lang,
sinh năm Quý Tỵ (1768 tr. TL), lên ngôi khi 18
tuổi, truyền 5 đời vua đều xưng là Hùng Chiêu
Vương, ở ngôi tất cả 200 năm, từ năm Canh Tuất
(1631 tr. TL) đến năm Kỷ Tỵ (1432 tr. TL). Ngang
với Trung Quốc vào thời Tổ Ất nhà Thương.



8. Chi Đoài: Hùng Vỹ Vương, húy Vân Lang, sinh
năm Nhâm Thìn (1469 tr. TL) lên ngôi khi 39 tuổi,
truyền 5 đời vua đều xưng là Hùng Vỹ Vương, ở
ngôi tất cả 100 năm, từ năm Canh Ngọ (1431
tr.TL) đến năm Kỷ Dậu(1332 tr. TL). Ngang với
Trung Quốc vào thời Nam Canh nhà Thương.




9. Chi Giáp: Hùng Định Vương, húy Chân Nhân
Lang, sinh năm Bính Dần (1375 tr. TL), lên ngôi
khi 45 tuổi truyền 3 đời vua đều xưng là Hùng
Định Vương, ở ngôi tất cả 80 năm, từ năm Canh
Ngọ ( 1251 tr. TL) đến Kỷ HợI (1162 tr.TL).
Ngang với Trung Quốc vào thời Tổ Giáp nhà Ân.



10. CHI ẤT:Hùng Uy Vương, huý Hoàng Long
Lang, sinh năm Giáp Ngọ (1287 tr. TL), truyền 3
đời, tại ngôi tất cả 90 năm. Từ năm Canh Ngọ
(1251 TCN) đến năm Kỷ Hợi (1162 tr. TL). Ngang
với Trung Quốc vào thời Tổ Giáp nhà Ân.




11. Chi Bính: Hùng Trinh Vương, húy Hưng Đức
Lang, sinh năm Canh Tuất (1211 tr. TL), lên ngôi
khi 51 tuổi, truyền 4 đời vua, đều xưng là Hùng
Trinh Vương, ở ngôi tất cả 107 năm, từ năm Canh
Tý (1161 tr. TL) đến năm Bính Tuất (1055 tr. TL).
Ngang với Trung Quốc vào thời Thành Vương
nhà Tây Chu.



12. Chi Đinh: Hùng Vũ Vương, húy Đức Hiền

Lang, sinh năm Bính Thân (1105 tr. TL), lên ngôi
khi năm 52 tuổi, truyền 3 đời vua đều xưng là
Hùng Vũ Vương, ở ngôi tất cả 96 năm, từ năm
Đinh Hợi (1054 tr. TL) đến năm Nhâm Tuất (969
tr. TL). Ngang với Trung Quốc vào thời Lệ Vương
nhà Tây Chu.



13. Chi Mậu: Hùng Việt Vương, húy Tuấn Lang,
sinh năm Kỷ Hợi (982 tr. TL) lên ngôi khi 23 tuổi,
truyền 5 đời vua, đều xưng là Hùng Việt Vương, ở
ngôi tất cả 105 năm, từ năm Quý Hợi (958 tr. TL)
đến Đinh Mùi (854 tr. TL). Ngang với Trung Quốc
vào thời Lệ Vương nhà Tây Chu.



14. Chi Kỷ: Hùng Anh Vương, húy Viên Lang,
sinh năm Đinh Mão (894 tr. TL) lên ngôi khi 42
tuổI, truyền 4 đời vua đều xưng là Hùng Anh
Vương, ở ngôi tất cả 99 năm, từ năm Mậu Thân
(755 tr. TL). Ngang với Trung Quốc vào thời Bình
Vương nhà Đông Chu.



15. Chi Canh: Hùng Triệu Vương, húy Cảnh
Chiêu Lang, sinh năm Quý Sửu (748 tr. TL), lên
ngôi khi 35 tuổi truyền 3 đời vua đều xưng là

Hùng Triệu Vương, ở ngôi tất cả 94 năm, từ năm
Đinh Hợi (754 tr. TL) đến năm Canh Thân (661
tr. TL). Ngang với Trung Quốc vào thời Huệ
Vương nhà Đông Chu.



16. Chi Tân: Hùng Tạo Vương (Thần phả xã Tiên
Lát, huyện Việt Yên, tỉnh Hà Bắc, ghi đời thứ 16
là Hùng Tạo Vương, đóng ở Việt Trì, có Thạc
tướng quân đánh tan giặc Man, Vua phong là
Chuyển Thạch Tướng Đại Vương - ‘NgườI anh
hùng làng Dóng’ Cao Xuân Đỉnh (NxbKHXH
1969 trg 126-130), húy Đức Quân Lang, sinh năm
Kỷ Tỵ (712 tr. TL) lên ngôi tất cả 92 năm, từ năm
Tân Dậu (660 tr. TL) đến năm Nhâm Thìn (569 tr.
TL). Ngang với Trung Quốc vào thời Linh Vương
nhà Đông Chu.



17. Chi Nhâm: Hùng Nghị Vương, húy Bảo Quang
Lang, sinh năm Ất Dậu (576 tr. TL) lên ngôi khi 9
tuổi, truyền 4 đời vua đều xưng là Hùng Nghị
Vương, ở ngôi tất cả 160 năm, từ năm Quý Tỵ
(568 tr. TL) đến năm Nhâm Thân (409 tr. TL).
Ngang với Trung Quốc vào thời Uy Liệt Vương
nhà Đông Chu.




18. Chi Quý: Hùng Duệ Vương, sinh năm Canh
Thân (421 tr. TL), lên ngôi khi 14 tuổi, truyền
không rõ mấy đờI vua (có lẽ 3 đời) vì ở đình Tây
Đằng, huyện Ba Vì - Hà Nội có bài vị « Tam Vị
Quốc Chúa », ở ngôi tất cả 150 năm, từ năm Quý
Dậu (408 tr. TL) đến năm Quý Mão (258 tr. TL).
Ngang với năm thứ 17 đời Uy Liệt Vương, đến
năm thứ 56 đời Noãn Vương nhà Đông Chu
Trung Quốc.

Như vậy, họ Hồng Bàng, trị vì nước Văn Lang, với
vương hiệu Hùng Vương, không phải chỉ có 18 đời
(18 ông vua) mà là 18 chi, mỗi chi có nhiều đời
vua.


Điều này giải thích hợp lý sự tồn tại gần 3000 năm
của thời đại Hùng Vương.


Đền Hùng tọa lạc trên ngọn núi cao nhất có tên là
Nghĩa Lĩnh hay Hùng Sơn (Bắc Việt). Trong ngôi
đền chính, có một bài vị chung, thờ các vị Vua
Hùng, có hàng chữ « Đột Ngột Cao Sơn Cổ Hùng
Thị thập bát thế thánh vương, thánh vị ». Theo
thiển ý, do tục thờ cúng tổ tiên, chỉ chờ vị khai
sáng đầu tiên, nên chữ « Thập bát thế » có thể
hiểu là 18 Vương hiệu của các vị Tổ đầu tiên của
18 chi Hùng Vương, đã thay nhau cầm quyền trên

đất nước Văn Lang, quốc gia đầu tiên của người
Việt chúng ta ngày nay.

×