Tải bản đầy đủ (.pdf) (9 trang)

NGOẠI GIAO THỜI LÊ LỢI - NGUYỄN TRÃI CHỐNG QUÂN MINH ĐÔ HỘ - PHẦN 1 pps

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (84.5 KB, 9 trang )

Chương năm

NGOẠI GIAO THỜI LÊ LỢI - NGUYỄN TRÃI
CHỐNG QUÂN MINH ĐÔ HỘ - phần 1

Trong quá trình giữ nước của dân tộc, Tổ tiên ta ở
các thời đều kết hợp đấu tranh quân sự với đấu tranh
ngoại giao để đánh thắng giặc. Chiến tranh giải
phóng hay chiến tranh bảo vệ Tổ quốc, Tổ tiên ta đều
làm như thế. Thời kỳ chiến tranh đánh đuổi quân
Minh đô hộ, Lê Lợi và Nguyễn Trãi đã kiên trì đấu
tranh ngoại giao kết hợp đấu tranh quân sự để đánh
thắng giặc. Lê Lợi và Nguyễn Trãi chủ trương “Ta
mưu dẹp bằng đánh vào lòng, không chiến trận mà
địch phải khuất" (Ngã mưu phạt như tâm công, bất
chiến tự khuất - Bình Ngô đại cáo).

Đánh vào lòng địch là một bộ phận của đấu tranh
ngoại giao mà Nguyễn Trãi đã dùng với hai hình
thức:
n
1. Dụ hàng các tướng lĩnh, binh sĩ địch và ngụy quân
ở các thành.

2. Đấu tranh hòa đàm, khi thì để hòa hoãn tạm thời
với địch, khi thì buộc địch phải chấm dứt chiến tranh,
rút quân về nước.

Trong quá trình đánh địch, Nguyễn Trãi đảm nhiệm
gần như toàn bộ công việc “đánh vào lòng địch". Ông
viết gửi cho địch, ngụy hàng trăm bức thư để dụ


hàng, để hòa đàm. Ông trực tiếp tới một số thành để
khuyên địch ra hàng. Ông năm lần thân vào thành
Đông Quan đàm phán với chủ tướng địch.

Khi có tướng địch đem quân ra hàng, Nguyễn Trãi và
các lãnh tụ nghĩa quân tiếp đón, đối xử rất niềm nở,
ân cần. Với thái độ, chính sách và tích cực làm công
tác binh vận, Nguyễn Trãi và nghĩa quân Lam Sơn đã
thu được nhiều kết quả tốt đẹp. Trong quá trình chiến
đấu, đã có hàng vạn tướng sĩ, binh lính địch ra hàng;
hàng vạn tướng sĩ, binh lính, quan lại ngụy trở về với
dân tộc.

Cùng với chủ trương dụ hàng, vận động quân địch
phản chiến, Nguyễn Trãi kiên trì đấu tranh hòa đàm
với địch. Đấu tranh hòa đàm của ông là một hình
thức đấu tranh ngoại giao đi liền với đấu tranh quân
sự, nhằm chấm dứt chiến tranh, đem lại hòa bình, gây
lại giao hảo giữa ta và địch. Nguyễn Trãi và nghĩa
quân Lam Sơn đã vận dụng rất linh hoạt, tài giỏi đấu
tranh quân sự với đấu tranh hòa đàm. Đàm mà vẫn
đánh, đánh mà vẫn đàm. Vừa đánh vừa đàm cho tới
khi chiến tranh kết thúc. Đàm tới khi địch không thể
đánh được nữa và đánh tới khi địch phải đàm phán,
chấp nhận đầu hàng mới thôi.

Từ năm 1418, nghĩa quân Lam Sơn phất cờ khởi
nghĩa, chiến đấu kiên cường, càng đánh càng mạnh,
nhưng vẫn khi được, khi thua, chưa giành được
những chiến thắng lớn và những thắng lợi quyết định.

Năm 1423, Nguyễn Trãi tới Lam Sơn, bắt đầu vận
dụng kế sách đấu tranh - hòa đàm để mở đầu một giai
đoạn chiến tranh mới, giai đoạn đánh mạnh vào lòng
địch, kết hợp đánh mạnh bằng quân sự và bằng sức
mạnh của quần chúng nổi dậy để đánh bại hẳn quân
địch.

Muốn thực hiện kế sách đó, công việc trước tiên là
phải đàm phán thương lượng với địch để có một thời
gian hòa hoãn, ngừng chiến với địch, tăng cường sức
mạnh của mình. Nguyễn Trãi được trao trách nhiệm
trực tiếp nghiên cứu, trù liệu việc đàm phán và đàm
phán thành công. Ta và địch có một thời gian hòa
hoãn, ngừng chiến từ đầu năm 1423 tới mùa xuân
năm 1424. Nghĩa quân Lam Sơn có thời gian chuẩn
bị điều kiện đánh lâu dài với địch, đi đến càng đánh
càng thắng.

Nhưng việc hòa hoãn không thể kéo dài. Những hoạt
động quyên tiền, mộ lính, những cảnh tượng nông
dân và những người yêu nước bốn phương tấp nập
kéo tới quân doanh Lam Sơn và không khí sôi nổi
luyện tập quân sĩ, chuẩn bị lương thực, chế tạo vũ
khí, không thể không tới tai mắt quân địch.

Vốn từ sau khi nghị hòa, các tướng lĩnh hai bên, ta và
địch, vẫn thường đi lại, quà cáp cho nhau. Nhưng dần
dần, địch thấy rõ nghĩa quân Lam Sơn đương tăng
cường lực lượng, nên hòa hoãn được hơn một năm,
địch cắt ngoại giao, bắt giam sứ của nghĩa quân,

không cho trở về.

Chiến tranh lại tiếp tục.


I. ĐÁNH VÀ ĐÀM, HẠ THÀNH TRÀ LONG

Xuất phát từ căn cứ địa Chí Linh - Lam Sơn, nghĩa
quân quyết định đánh vào phía nam, tức Diễn Châu,
Nghệ An, Tân Bình, Thuận Hóa là những nơi địch có
nhiều sơ hở, vì càng xa căn cứ chính của địch ở Đông
Quan, Tây Đô, lực lượng địch càng mỏng càng yếu.

Được tin nghĩa quân đang theo đường núi tiến vào
Nghệ An, các tướng giặc cao cấp ở Đông Quan là
Trần Trí, Phương Chính vội đem quân tiến vào theo
đường hành quân của nghĩa quân. Tướng giặc ở Nghệ
An là Sư Hựu và các tướng ngụy là tri phủ Cầm Bành
ở Trà Long, tri phủ Cầm Lạn ở Quỳ Châu được lệnh
đem quân phối hợp, đón đánh nghĩa quân.

Khoảng tháng 12 năm 1424, nghĩa quân Lam Sơn tới
trước thành Trà Long, cho người dụ hàng Cầm Bành.
Viên ngụy quan này cố thủ trong thành, cho người đi
Nghệ An cầu cứu viện binh. Thấy Cầm Bành cố thủ
không hàng, nghĩa quân Lam Sơn một mặt vây thành,
một mặt giải phóng vùng đất đai châu Trà Long và
chuẩn bị đối phó với viện binh giặc.

Bấy giờ là đầu năm 1425, Cầm Bành bị vây khốn đã

hơn một tháng. Để nhanh chóng cứu nguy cho Cầm
Bành, chủ tướng giặc Trần Trí quyết định trả những
sứ giả của nghĩa quân mà chúng đã giam giữ từ giữa
năm 1424 và cho người của chúng mang thư cầu hòa
tới đại bản doanh nghĩa quân Lam Sơn. Các lãnh tụ
Lam Sơn chấp nhận nghị hòa của chủ tướng giặc,
nhưng buộc chúng phải hạ lệnh cho Cầm Bành ngừng
chiến, giao hảo với nghĩa quân thì việc hòa giải mới
thành. Các tướng giặc ở Nghệ An vội cho người tới
Trà Long hạ lệnh cho Cầm Bành ngừng chiến, không
được cố thủ trong thành, phải cùng nghĩa quân hòa
giải. Thấy không có viện binh, lại được lệnh ngừng
chiến, Cầm Bành tuyệt vọng, mở cửa thành ra hàng.

Nghĩa quân vào thành, tha tội cho Cầm Bành và mọi
người trong thành. Với chiến thắng này, thanh thế
nghĩa quân càng lớn mạnh, vang dội khắp miền Nghệ
An, Diễn Châu và vùng biên giới giáp Ai Lao. Nhiều
hào kiệt trong vùng tới Trà Long xin theo nghĩa quân.
Nhân dân và các tù trưởng thiểu số những vùng gần
Trà Long đều hoan nghênh, ủng hộ nghĩa quân. Hơn
5.000 trai tráng tình nguyện gia nhập lực lượng vũ
trang. Sức mạnh của nghĩa quân Lam Sơn được nâng
cao.

Việc hạ thành Trà Long là một bằng chứng xác nhận
sự kết hợp tiến công quân sự với tiến công ngoại giao
và địch vận của nghĩa quân là đúng đắn. Việc hạ
thành Trà Long còn đem lại cho nghĩa quân Lam Sơn
một kinh nghiệm chiến đấu mới: muốn đánh lấy

thành địch, không nhất thiết phải tiến công quân sự,
phá thành diệt địch, mà có thể vây hãm thành kết hợp
với địch vận gọi hàng, hoặc vây hãm thành kết hợp
với đấu tranh ngoại giao khiến chỉ huy của địch ở cấp
trên phải hạ lệnh cho tướng giữ thành bỏ vũ khí
không được chiến đấu, như trường hợp hạ thành Trà
Long. Đây là một kinh nghiệm quý có giá trị lớn về
chiến lược, nghĩa quân Lam Sơn tiếp tục vận dụng
trong nhiều trường hợp đánh thành sau này.

×