Tải bản đầy đủ (.pdf) (26 trang)

NGOẠI GIAO TRIỀU MINH MẠNG (1820 1840) potx

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (122.8 KB, 26 trang )

III- NGOẠI GIAO TRIỀU MINH MẠNG (1820 -
1840)


Minh Mạng làm vua từ năm 1820 đến năm 1840,
nhưng không được lòng người nên trong 20 năm thời
Minh Mạng có tới 40 cuộc khởi nghĩa chống triều
đình, chống vua quan nhà Nguyễn, liên tiếp nổ ra từ
Nam chí Bắc.

Về ngoại giao, Minh Mạng chú ý việc đi sứ và đón
sứ. Minh Mạng từng nói với triều thần: “Từ Trần, Lê
về trước, không phải người tài rộng khắp thì không
cho đi sứ được. Nhân đó sắc rằng: từ nay đi sứ phải
chọn người tài đức" (Đại Nam thực lục. Bản dịch của
Nxb Khoa học, Hà Nội, 1963, tập V, tr.290-291).

Khi mới lên ngôi vua, năm 1820 Minh Mạng cho làm
nhà tiếp sứ ở ngoài thành Thăng Long, bờ nam sông
Hồng và một sứ quán ở. Gia Quất, bên bờ bắc sông
Hồng.

Minh Mạng sẵn sàng tiếp khách ngoại quốc, kể cả
người phương Tây. Cho nên ngay từ năm 1820, đã có
người Mỹ, người Pháp tới giao dịch. Sách sử ghi
rằng: giữa năm 1820, một tàu Mỹ tới Gia Định dâng
"chim hạc đen” và "lợn vàng" (Đại Nam thực lục,
sđd, tr.98.). Năm 1821 một tàu buôn của Pháp đến Đà
Nẵng, dâng thư xin thông thương và tặng một tấm
gương to của phương Tây. Minh Mạng nhận lời, cho
người Pháp đến buôn bán và gửi tặng vua Pháp nhiều


sản vật Việt Nam có giá trị: 100 cân da voi, 30 cân da
tê tê, 10 tấm da hổ, 100 tấm da trâu, 500 tấm da
hươu, 200 tấm the nam, 200 tấm sa nam, 100 tấm lụa
Cao Bộ, 1.000 cân đường phèn, 1.000 cân đường
phổi, 1 vạn cân đường cát, 2 cây ngà voi, 2 cỗ sừng tê
giác.

Về quan hệ ngoại giao chính thức giữa nhà nước với
nhà nước thì Minh Mạng vẫn theo đường lối của triều
trước, chỉ hạn chế trong phạm vi quan hệ với mấy
nước láng giềng: Xiêm, Lào, Miên và Trung Quốc.
Những năm dưới thời Minh Mạng, quan hệ giữa nước
ta với các nước láng giềng là hữu nghị .

1. Quan hệ với Xiêm

Khi mới lên ngôi, Minh Mạng cho sứ sang Xiêm báo
tang vua Gia Long và đưa tặng vua Xiêm một số sản
vật: 2 cân kỳ nam, 3 cân nhục quế, 1 nghìn cân
đường phèn, 2 nghìn cân đường cát, 100 tấm the, 100
tấm sa và 100 tấm vải.

Năm 1824, Xiêm cho sứ sang triều đình Huế báo tin
vua Xiêm mất; Minh Mạng bãi triều ba ngày để tang
vua Xiêm.

Nhưng đến năm 1827, Xiêm xâm lược nước Vạn
Tượng (Bắc Lào). Vua Vạn Tượng là A Nỗ chạy
sang Việt Nam cầu cứu. Minh Mạng cho quân sang
giúp Lào. Cuộc xung đột Việt - Xiêm bắt đầu. Lào

lấy lại được nước.

Năm 1829, Minh Mạng đưa thư sang hòa hoãn với
Xiêm. Nhưng hòa hoãn chỉ là tạm thời và mong
manh. Những xung đột, hấn khích giữa Xiêm và Việt
Nam vẫn diễn ra liên tiếp trên đất Lào. Năm 1832,
Xiêm cho sứ sang Việt Nam báo tin vua thứ hai nước
Xiêm mất; Minh Mạng cho sứ sang điếu tang. Nhưng
sang năm 1833 Việt - Xiêm lại xung đột trên đất
Miên và cứ thế liên tục đến hết đời vua Minh Mạng.

2. Quan hệ với Vạn Tượng (Lào)

Thời Minh Mạng, quan hệ giữa nước ta và Vạn
Tượng là tốt, hai bên thường có sứ qua lại, tặng quà
nhau rất trọng hậu.

Năm 1821, vua Vạn Tượng cho đem nhiều vật phẩm
sang tặng triều đình Huế. Đáp lại, ngoài những quà
tặng như thường lệ, Minh Mạng còn tặng vua Vạn
Tượng nhiều thứ như: gấm đoạn 5 cây, lụa các màu,
the nam, sa nam, là nam mỗi thứ 10 tấm, 1 bộ đồ chè
(trà) bịt vàng, 1 bát bịt vàng, 1 bát bịt bạc, 10 đĩa bịt
bạc và 1 cái trống lớn.

Đối với sứ bộ Vạn Tượng, Minh Mạng tặng chánh sứ
một áo chiến bằng gấm Tống đỏ, hai cây súng tây
bằng kim loại; tặng phó sứ một áo chiến bằng nhung
đoạn lam, một cây súng tây. Cả chánh phó sứ còn
được tặng mỗi người một xiêm bằng gấm Lào, một

thanh đao mạ bạc, một cỗ cáng, một cái lọng. Các
nhân viên tùy tùng trong sứ bộ đều được tặng thưởng
tiền bạc, xiêm áo.

Năm 1827, Xiêm đánh chiếm Vạn Tượng, Luông Pha
Băng. Thủ lĩnh vùng Trấn Ninh là Chiêu Nội chạy
sang Việt Nam xin nội thuộc.

Vua Vạn Tượng là A Nỗ bị Xiêm tiến công cũng
chạy sang cầu cứu, nương nhờ nước ta. Minh Mạng
cho quân sang Vạn Tượng. Quân Xiêm rút về Xiêm.
Năm 1828, Minh Mạng cho quân đưa A Nỗ về Vạn
Tượng. Tình hình Vạn Tượng được yên.

3. Quan hệ với Chân Lạp

Mùa xuân 1820, sau khi lên ngôi, Minh Mạng gửi thư
sang Chân Lạp, tặng vua Chân Lạp 10 cây gấm Tống,
50 tấm lụa, 50 tấm vải và 10 tấm tườu lông (da khỉ).

Mùa thu 1820, vua Chân Lạp là Nặc Chân sang đưa
lễ tiến hương (phúng vua chết) và lễ khánh hạ (mừng
vua mới). Lễ tiến hương gồm 500 cân sáp ong, 300
tấm vải trắng. Lễ khánh hạ gồm 55 cân bạch đậu
khấu, 55 cân cánh kiến, 55 cân sáp ong, 2 đôi ngà
voi, 2 cỗ sừng tê, 10 vò sơn.

Đáp lại lễ vật tặng vua Chân Lạp theo lệ thường: 10
cây gấm Tống, 20 tấm tườu nam, 20 tấm sa nam, 20
tấm lụa bắc, 40 tấm vải đen, 40 tấm vải trắng. Tặng

thêm ngoại lệ: 2 cây thiểm kim (vàng nhấp nhánh), 2
cây giám kim (lẫn vàng), 2 tấm đoạn lông màu đỏ, 4
tấm đoạn lông màu lam.

Tặng hai chánh phó sứ Chân Lạp, mỗi người 30 lạng
bạc, 10 quan tiền; thông ngôn 10 lạng bạc, 5 quan
tiền; quân đi theo mỗi người 2 lạng bạc, 2 quan tiền.

Tặng thêm cho chánh sứ 1 bộ đồ chè (trà) bịt vàng, 3
tấm tườu hoa, 1 tấm lụa. Tặng thêm cho phó sứ một
bộ đồ chè bịt bạc, 2 tấm tườu nam hoa, 1 tấm lụa; cho
thông ngôn 1 tấm tườu nam hoa, 1 tấm lĩnh nam đen.
Lại gia ân thêm cho hai chánh phó sứ hai cái áo chiến
hai lớp bằng tườu nam lam, 2 áo ngắn hẹp tay bằng
tườu lam lót lụa, hai bức chăn tườu lam lót lụa, 2 áo
tràng vạt bằng vải trắng, 3 bức khản vải trắng. Cho
thông ngôn một áo chiến bằng sa tanh lót vải, 1 áo
ngắn hẹp tay bằng sa xanh lót lụa. Cho 7 người đi
theo mỗi người 1 áo chiến bằng vải xanh lót vải
trắng.

Mùa xuân năm sau (1821), vua Chân Lạp là Nặc
Chân dâng biểu xin nhà Nguyễn sai quan quân sang
bảo hộ nước mình. Biểu rằng:

“Nước tôi nhỏ yếu, khi trước nhờ ơn đức Thái tổ Cao
hoàng đế tài bồi, sai quan bảo hộ, nước tôi nhờ mà
yên được, vì tôi trẻ thơ chưa biết gì, tin lời nói dèm,
nên quan binh bảo hộ rút về Gia Định; trong nước lại
có nghịch Kế, nghịch Tây làm loạn, nhờ quan binh

tới đánh, bình được cả; vậy thời tôi giữ được nhà
nước tôi, đều là ơn triều đình gây dựng lại; nay xin
đặt quan bảo hộ như trước" (Quốc triều chánh tiên
toát yếu , tr.115-116. Kế và Tây là tên hai kẻ phản
nghịch).

Theo lời biểu, Minh Mạng cho tướng Nguyễn Văn
Thụy đóng quân tại thành Châu Đốc, kiêm quản công
việc trấn Hà Tiên và bảo hộ nước Chân Lạp.

Cuối năm 1822, vua Chân Lạp là Nặc Chân cho
người sang Gia Định đề nghị nhà Nguyễn cùng Chân
Lạp đào sông Vĩnh Tế ở vùng biên giới hai nước.
Sông này đào từ khi Gia Long còn sống. Gia Long
chết, việc đào sông bỏ dở. Nay theo đề nghị của Chân
Lạp, Minh Mạng nhận hiệp lực đào sông. Hai bên
định kế hoạch đầu năm sau 1823 khởi công đào và
đầu mùa hạ đào xong. Nhà Nguyễn đưa hơn 39.000
binh dân, Chân Lạp đưa hơn 16.000 binh dân cùng
làm. Tới đầu mùa hạ, sông chưa đào xong, nhưng
thời tiết trời oi bức quá, công việc phải tạm hoãn.
Tháng hai năm Giáp Thân (1824) hai nước lại tiếp
tục đào. Chỉ còn 1700 trượng phải đào, nên đến tháng
5 âm lịch (tức 3 tháng sau) sông đào xong hẳn. Một
bia đá được dựng để ghi lại công trình hợp tác xây
dựng giữa hai nước đã hoàn thành.

Công việc bảo hộ Chân Lạp tiếp tục tới năm 1840,
cuối đời Minh Mạng.
4. Quan hệ với Trung Quốc


Cũng như các triều trước, Minh Mạng giữ quan hệ
chặt chẽ với Trung Quốc về cả hai mặt: chính trị và
kinh tế.

Trong năm đầu (1820) Minh Mạng hai lần cho người
đi Trung Quốc mua hàng. Lần đầu vào tháng ba âm
lịch. Lần sau tháng sáu âm lịch, cho hẳn một sứ bộ
đông người, do bốn viên quan cầm đầu, đi mua hàng.
Sử không ghi rõ mua những hàng gì mà đi đông
người.

Về mặt ngoại giao, Minh Mạng coi việc đi sứ Trung
Quốc và tiếp sứ Trung Quốc là quan trọng.

Tháng chín năm Canh Thìn (1820), một sứ bộ do
Ngô Vị là hữu tham tri Lại bộ làm chánh sứ sang
Trung Quốc, có hai giáp ất phó sứ đi cùng. Hai viên
quan khác được cử làm chánh hậu mệnh và phó hậu
mệnh đi lên cửa ải Lạng Sơn để giúp việc đi sứ. Trên
đường đi sứ, Ngô Vị ốm, chết ở Nam Ninh, tạm quàn
thi hài tại Nam Ninh. Phó sứ Trần Bá Kiên thay Ngô
Vị tiếp tục lên đường làm việc sứ. Đến tháng tư năm
Tân Tỵ (1821) sứ bộ Trần Bá Kiên tới triều đình nhà
Thanh tại Yên Kinh.

Vua Thanh cho án sát sứ Quảng Tây là Phan Cung
Thìn làm khâm sứ mang sắc phong vương cho Minh
Mạng.


Theo nhu các triều trước, khâm sứ Trung Quốc chỉ
đem chiếu sắc tới Thăng Long, nên Minh Mạng từ
Huế phải "ngự giá Bắc Hà" ra Hà Nội đón tiếp sứ và
cử người đi đón sứ từ biên giới xuống. Phó đốc trấn
Thanh Hoa là Phan Văn Thúy, hữu tham tri Lại bộ là
Nguyễn Văn Hưng, tham bồi Lễ bộ là Đình Phiến
sung chức hậu mệnh sứ tới đón sứ tại cửa quan. Phó
đô thống chế quân Thần sách là Nguyễn Văn Trí, hữu
tham tri Hình bộ là Vũ Đức Thông, thự tham tri là
Nguyễn Hữu Nghi sung chức hậu tiếp sứ từ địa đầu
Kinh Bắc. Thống chế thị nội là Vũ Viết Bảo, hữu
tham tri Hộ bộ là Nguyễn Công Tiếp sung chức hậu
tiếp sứ tại công quán Gia Quất.

Ngày làm lễ nhận sắc phong, từ sáng sớm đã đặt lỗ
bộ đại giá suốt dọc đường từ sân điện Kính Thiên đến
cửa Chu Tước. Từ phía ngoài cửa Chu Tước đến bến
đò sông Hồng đều dàn bày các đội ngũ binh sĩ và voi.
Tả thống chế Thị trung Tôn Thất Dịch làm thân thần
mang mũ áo bào tía sang công quán Giá Quất. Trấn
thủ Sơn Nam Hạ là Nguyễn Văn Hiếu, tả tham tri
Binh bộ là Trần Minh Nghĩa, tả tham tri Hộ bộ là
Đoàn Viết Nguyên đến nhà tiếp sứ ở bến sông để
nghênh tiếp sứ.

Vua Minh Mạng đội mũ cửu long, mặc hồng bào, đeo
đai ngọc, đứng chờ ở cửa Chu Tước; hoàng thân và
các quan mặc phẩm phục theo hầu. Tổng trấn Bắc
Thành là Lê Chất và hiệp biện đại học sĩ Trịnh Hoài
Đức sung chức thì vệ đại thần.


Giờ ngọ, sứ Thanh là Phan Cung Thìn theo long đình
đến điện Kính Thiên làm lễ tuyên phong. Chưởng
tượng quân (quân voi) Nguyễn Đức Xuyên sung chức
thụ sắc sứ. Lễ xong, vua mời sứ Phan Cung Thìn đến
tiền điện mời trà. Vua cũng cho mời sứ dự yến tiệc ở
công quán Gia Quất và tặng biếu phẩm vật. Phan
Cung Thìn chỉ nhận lụa vải tặng, còn đều trả lại và tạ
ơn

Ngày hôm sau, sứ Thanh làm lễ dụ tế. Từ ngày trước,
khi đến công quán Gia Quất, Phan Cung Thìn đã
dâng lụa tế 50 tấm và đồ tế phẩm, chiết thành số bạc
100 lạng, do hậu tiếp sứ Vũ Viết Bảo đệ tiến.

Vua sai hữu ty sắm sửa xôi, lợn, cỗ bàn và thêm lụa
tế 100 tấm, đem bày ở điện Thị triều. Vua mặc lễ
phục đến trước bàn thờ dâng rượu lạy cáo, rồi sai
quan ra tiếp sứ. Giờ thìn, Phan Cung Thìn theo long
đình đến làm lễ dụ tế. Chưởng thủy quân là Tống
Phước Lương sung chức bổng tửu sứ (bưng rượu).
Thượng thư Hộ bộ Nguyễn Hữu Thận sung chức điển
nghi sứ. Hiệp trấn Sơn Nam Hạ là Bùi Đức Mân, hữu
tham tri Công bộ Trần Văn Tính sung chức tả hữu
bổng tửu sứ. Lễ xong, Phan Cung Thìn từ biệt về
công quán. Vua lại đặt yến và tặng biếu như trước.
Phan Cung Thìn chỉ nhận ngọc quế Thanh Hoa và xin
về Trung Quốc. Minh Mạng sai hậu mệnh sứ là Phan
Văn Thúy tiễn ra cửa quan, và cũng cho một sứ bộ
sang Thanh. Cầm đầu sứ bộ là Hàn lâm Viện chưởng

Viện học sĩ Hoàng Kim Hoán làm chánh sứ, thiên sự
lễ bộ Phan Huy Thực và thiên sự Binh bộ Vũ Du làm
giáp ất phó sứ.

Hai bên giao tiếp hữu nghị như vậy, nhưng chỉ được
mươi năm. Năm 1830, người Thanh đúc tiền kẽm
như tiền Việt Nam để đưa sang Việt Nam tiêu dùng,
làm cho giá cả hàng hóa ở Việt Nam tăng vọt lên.
Triều đình nhà Nguyễn phải ra lệnh cho các vùng
biên giới kiểm soát thật kỹ, không cho kẻ gian chở
trộm tiền kẽm từ Trung Quốc sang. Năm sau (1831)
nhà Thanh cho hơn 600 người đến chiếm đóng đồn
Phong Thổ, đòi quân lính Việt Nam phải rút đi. Minh
Mạng cho Đặng Văn Thiêm đem hơn 1.000 quân và
10 thớt voi tiến lên Hưng Hóa. Quân Thanh phải rút.
Minh Mạng giao cho các thủ lĩnh thiểu số ở địa
phương cai quản hai động Phong Thổ và Bình Lưu.

Năm 1832, bia địa giới Việt - Trung ở sông Đỗ Chú
(phía bắc Hà Giang) bị gãy. Bên bờ bắc sông Đỗ Chú
là đất Trung Quốc, bên bờ nam sông Đỗ Chú là đất
nước ta. Bia địa giới dựng từ thời Lê, có khắc chữ
“An Nam quốc, Tuyên Quang trấn, Vi Xuyên giới
chí, dĩ Đỗ Chú hà vi cứ”, nghĩa là địa giới nước Nam
lấy sông Đỗ Chú ở biên giới huyện Vị Xuyên, trấn
Tuyên Quang làm căn cứ. Tuyên Quang thời xưa
gồm cả tỉnh Tuyên Quang và Hà Giang ngày nay.

Biết bia gãy, Minh Mạng cho dựng lại bia. Còn như
tại sao bia gãy thì không rõ. Chỉ có một thực tế là

người Thanh thường xâm phạm vùng biên giới.

Người Thanh còn theo đường thủy xâm nhập nước ta.
Họ thường sang mua gạo lén lút đem về bán ở Trung
Quốc. Minh Mạng phải ra lệnh cấm: cấm người
Trung Quốc không được mua gạo và cấm các thuyền
buôn Việt Nam không được chở gạo sang bán ở
Trung Quốc. Lệnh cấm bắt đầu từ năm 1832.

Đầu năm Đinh Dậu (1837) hơn 300 quân Thanh xâm
lấn động Sơn Yên, thuộc thâu Thủy Vĩ; quân dân ta ở
Hưng Hóa đã đánh đuổi chúng.
5. Quan hệ với các nước Đông Nam châu Á

Thời Minh Mạng, triều đình nhà Nguyễn có quan hệ
với nhiều nước vùng Đông Nam Á. Mấy năm đầu
còn thưa thớt, về sau quan hệ thường xuyên trong
hàng chục năm liền, năm nào cũng có.

Đầu năm 1824, Miến Điện cho sứ sang thông hiếu và
đưa tặng phẩm: 1 ấn vàng, 40 cái nhẫn, 1 hộp trầu
sơn son, 1 chuỗi trân châu "bất nhiên", 1 bức mền tơ
đỏ, 2 bức tườu đại hồng ti, 2 bức tườu tố hồng ti.
Minh Mạng gửi vua Miến Điện 32 cân quế 100 cây
lụa, 100 cây sa, 100 cây tườu, 1.000 cân đường cát;
tặng chánh sứ Miến Điện 100 lạng bạc, tặng phó sứ
80 lạng bạc, mỗi người 1 áo bào song khai bằng đoạn
thêu và 1 quần; tặng 5 viên bồi sứ, mỗi người 60 lạng
bạc, 1 áo nhung trung khai và 1 quần. Cho 40 quân
tùy tùng mỗi người 4 lạng bạc, 1 áo đoạn đỏ trung

khai và 1 quần.

Đầu năm 1825, triều đình nhà Nguyễn cho người
sang Hạ Châu và Giang Lưu Ba công cán. Hạ Châu
và Giang Lưu Ba là Xanh-ga-po và In-đô-nê-xi-a. Sử
ghi là đi công cán, không rõ là làm gì, hoạt động
ngoại giao hay mua bán hàng hóa. Trong thực tế lịch
sử triều đình Minh Mạng vẫn chưa có quan hệ ngoại
giao chính quyền các nước Đông Nam Á.

Giữa năm 1828, Minh Mạng ra lệnh cấm thuyền buôn
nước ta không được đến buôn bán ở Hạ Châu, vì
thuyền buôn nước ta ở Gia Định thường đem gạo
sang bán ở Hạ Châu. Nhưng từ năm 1830 trở đi cho
đến hết đời Minh Mạng, trong 10 năm liền, quan hệ
buôn bán giữa ta và các nước Đông Nam Á năm nào
cũng có. Ta bán sang các nước này những mặt hàng
như: đường cát, đồng thoi, ngà voi, cánh kiến , và
hàng ta mua thường là: kẽm, súng điển thương, vải
trắng

6. Tiếp xúc với các nước phương Tây

Từ cuối thế kỷ XVIII, trong đội quân mộ của Nguyễn
Ánh để chống phong trào nghĩa quân Tây Sơn đã có
một số người Pháp tới nhập ngũ. Khi Nguyễn Ánh
lên ngôi vua, mấy người Pháp là Chaigneau và
Vannier ở lại làm quan tại triều đình Huế. Họ lấy vợ
Việt Nam, sinh con đẻ cái và sống ở Việt Nam. Cuối
đời Gia Long, Chaigneau về Pháp nghỉ 3 năm. Sau 3

năm nghỉ, Chaigneau được triều đình Pháp cử làm
lãnh sự Pháp ở Việt Nam, đồng thời làm khâm sai
của vua Pháp Louis XVIII, đem phẩm vật tặng vua
Việt Nam và đưa quốc thư Pháp điều đình thông
thương với Việt Nam. Chaigneau sang thì Minh
Mạng đã làm vua thay Gia Long. Minh Mạng cho
viết thư trả lời vua Pháp là hai nước Việt Nam và
Pháp không việc gì phải làm điều ước thương mại.
Tới buôn bán ở Việt Nam thì cứ theo luật pháp của
Việt Nam là được.

Năm 1822, một tàu chiến của Pháp là tàu Cléopâtre
đến cảng Đà Nẵng; thuyền trưởng xin vào triều yết
kiến, Minh Mạng không cho. Trong năm này, người
Anh đưa quốc thư và tặng vật đến xin thông thương.
Tặng vật gồm 500 khẩu súng điển thương và 1 đôi
đèn pha lê. Minh Mạng cũng chối từ.

Đối với người Pháp là Chaigneau và Vannier, thái độ
của Minh Mạng ngày càng lạnh nhạt. Tới đầu năm
1825, Chaigneau và Vannier xin từ chức và từ biệt
triều đình Huế, đem vợ con về Pháp. Mấy người Pháp
ấy đi khỏi thì cũng đầu năm 1825, một đại tá hải quân
Pháp là Bougainville đưa hai tàu chiến Thétis và
Espérance vào cửa Đà Nẵng, đem phẩm vật và quốc
thư Pháp, xin vào Huế yết kiến. Minh Mạng từ chối
không tiếp, không nhận quà tặng, lấy cớ là không có
người biết tiếng Pháp làm phiên dịch.

Mùa thu năm 1825, một tàu buôn Pháp tới buôn bán

ở Đà Nẵng, đưa tặng phẩm của Chaigneau và
Vannier gửi nhà vua. Minh Mạng cho đưa quà tặng
vào kho, coi như hàng mua và trả tiền là 7.680 lạng
bạc. Đáp lại, Minh Mạng cũng gửi thư thăm và quà
tặng cho Chaigneau và Vanmer.

Năm 1826, chính phủ Pháp cho người cháu của
Chaigneau sang làm lãnh sự Pháp ở Việt Nam. Triều
đình Minh Mạng không nhận lãnh sự. Người Pháp
này ở lại Việt Nam một thời gian, năm 1829 trở về
Pháp.

Tháng 12 năm 1827, Lê Văn Duyệt trách vua Minh
Mạng đối xử tàn nhẫn với giáo sĩ người Pháp.

Năm 1832, Pháp lại một lần nữa cho người cháu
Chaigneau sang đặt quan hệ lãnh sự, nhưng vẫn
không thành.

Cuối năm 1832, Mỹ đặt quan hệ thông thương, cho
hai người đem quốc thư tới. Sử cũ ghi tên hai người
này theo âm Hán - Việt là Nghĩa Đức Môn, La Bách
Đại. Minh Mạng cho viết thư trả lời tổng thống Mỹ
nói rõ người Mỹ có thể tới thông thương được, chỉ
cần tuân theo pháp luật Việt Nam, chỉ đậu thuyền và
buôn bán tại vũng Trà Sơn thuộc Đà Nẵng, không
được lên bờ làm nhà, đặt cửa hiệu.

Năm 1835, Minh Mạng ra lệnh cho các tỉnh ven biển
miền Nam, khi thấy có tàu ngoại quốc ghé đậu bến

nào thì quan coi bến phải đem thông ngôn tới xét hỏi
tàu từ đâu tới, tàu chiến hay tàu buôn và báo về triều
đình Huế ngay. Nếu là tàu chiến thì một mặt tâu về
triều, một mặt cho quân cảnh giới nghiêm ngặt và tư
đi các tỉnh lân cận đề phòng bất trắc. Ngày nào tàu đi,
hoặc đóng lại làm gì, đều phải tâu luôn. Minh Mạng
chỉ cho phép các tàu buôn phương Tây vào đậu và
buôn bán ở Đà Nẵng như đã có lệnh từ trước, không
được vào buôn bán ở các bến khác.

Đầu năm 1837, một tàu buôn của Anh qua bãi Hoàng
Sa bị cạn, hơn 90 người trên thuyền phải ghé vào trú
ở bãi biển Bình Định. Minh Mạng cho bố trí chỗ ở và
cung cấp tiền gạo cho họ. Chủ tàu và những quan
chức Anh trên tàu rất cảm động và cảm ơn. Minh
Mạng cho Nguyễn Tri Phương và một số người tùy
tùng đem tàu đưa những người Anh này sang Hạ
Châu, để từ đấy họ trở về nước.

Nếu chỉ có quan hệ giao thương như thế thì sự tiếp
xúc giữa triều đình nhà Nguyễn với người phương
Tây, dù không hữu nghị cũng không có gì phiền phức
xảy ra. Nhưng giao thương lại có vấn đề truyền giáo
đi kèm. Minh Mạng không bằng lòng cho người
phương Tây truyền đạo Gia Tô vào Việt Nam.

Năm 1825, tàu Thétis của Pháp vào Đà Nẵng, cho tới
khi đi tình hình êm đẹp. Nhưng khi tàu rời bến thì có
một giáo sĩ Pháp là Rogerot lén lút ở lại Việt Nam, đi
giảng đạo các nơi. Do đó, Minh Mạng ra chỉ dụ cấm

đạo. Chỉ dụ nhấn mạnh "Đạo phương Tây là tả đạo,
làm mê hoặc lòng người và hủy hoại phong tục cho
nên phải nghiêm cấm để người ta phải theo chính
đạo" .

Đầu năm 1833, Minh Mạng ra chỉ dụ cấm đạo lần thứ
hai. Các giáo sĩ bị lùng bắt, trục xuất.

Giữa năm 1833, Lê Văn Khôi nổi loạn, chiếm giữ Sài
Gòn. Trong hàng ngũ của Lê Văn Khôi có nhiều dân
theo đạo, có linh mục, có cả giáo sĩ ngoại quốc. Khi
cuộc nổi dậy bị dẹp tan, một giáo sĩ Pháp là
Marchand cùng năm thủ lĩnh cuộc nổi dậy bị xử tử tại
Huế.

Một giáo sĩ Pháp khác là Gagelin bị bắt ở Bình Định
cũng bị đưa về xứ tử tại Huế ngày 17 tháng 10 năm
1833. Trong những năm sau, khoảng mười giáo sĩ
nữa bị giết.

Năm 1836, Minh Mạng ra lệnh cấm đạo lần thứ tư.

×