Tải bản đầy đủ (.pdf) (15 trang)

LỊCH SỬ TRANG PHỤC CÁC TRIỀU ĐẠI TRONG KIẾN VIỆT NAM NHỮNG DI VẬT KHẢO CỔ VỀ VẢI LỤA, ĐỒ THÊU THỜI KÌ HÙNG VƯƠNG QUA NHỮNG NGÔI MỘ CỔ - PHẦN 2 ppsx

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (294.48 KB, 15 trang )

LỊCH SỬ TRANG PHỤC CÁC TRIỀU ĐẠI
TRONG KIẾN VIỆT NAM
NHỮNG DI VẬT KHẢO CỔ VỀ VẢI LỤA, ĐỒ
THÊU
THỜI KÌ HÙNG VƯƠNG QUA NHỮNG NGÔI
MỘ CỔ
(tiếp theo)

Sau đây là những nghiên cứu về khả năng lụa bị phân
hủy trong mộ thuyền ở Châu Can, Động Xá (Hà Tây
và Hưng Yên) đã được khoa học làm sáng tỏ. Theo
nghiên cứu của trung tâm tiền sử Đông Nam Á
(Nguyễn Việt, Phạm Quốc Long) và nghiên cứu của
Viện Hóa về các hợp chất thiên nhiên liên quan tới
các miếng vải cổ (Chu Quang Truyền, Bạch Thị Lê)
cho thấy:

Nghiên cứu hơn 1300 mảnh vải và lụa khác nhau có
tuổi khoảng 2100 đến 2300 năm, bước đầu biết chúng
thuộc loại sợi thân cây gai (boehmira) và lanh
(cannabis). Trên một số mảnh vải gai có hiện tượng
sợi dọc mất đứt đoạn tạo ra như vải dệt kiểu đăng-ten
(dental). Trong những công bố đầu tiên cho rằng do
kĩ thuật dệt tạo nên vải như vậy, nhưng sau khi những
mảnh vải này qua kính phóng đại cho thấy những vết
lồi lõm, so le đều đặn ở phần sợi đăng-ten là dấu ấn
tồn tại của những sợi dọc trước đây. Điều này cho
thấy có hai khả năng sau:

1. Mảnh vải được dệt hoàn chỉnh, sau đó được rút
sợi, tạo ra những khoảng trống như đăng-ten. Do vải


liệm được chôn còn mới chưa giặt nên nếp đè của sợi
bị rút ra vẫn còn nhận thấy được.

2. Mảnh vải đã được dệt bằng hai loại sợi khác nhau.
Khi dệt, người ta đóng sợi trên khung dệt nhằm mục
đích trang trí giống cách họ đã làm với miếng vải gai
có băng nhuộm chàm bằng sợi lanh. Trong trường
hợp này thì những sợi vải dọc đóng vào khung phải là
sợi đã bị môi trường phân hủy.

Các nhà khoa học đã tiến hành thực nghiệm kiểm
chứng cả hai trường hợp nêu trên:

1. Tiến hành dệt và rút sợi.

2. Tiến hành với thí nghiệm dùng hóa chất đặc hiệu
của môi trường đất của tầng chứ mộ tại Chân Can có
chứa các đặc trưng động thực vật (bao tử phấn hoa và
tảo) của vùng đầm lầy ven biển, có tuổi C14 vào
khoảng 4500 BP[1], tương ứng với ngập biển
Holocene giữa tại vùng này. Mẫu đất của tầng này đã
được phân tích địa hóa, cho thấy độ pH rất thấp
(trong khoảng 1-4), trái lại độ SO3 lại rất cao. Đây là
môi trường bảo quản tốt các vật chất hữu cơ có
nguồn gốc thực vật như gỗ, tre, nứa, vải sợi, thậm chí
cả hạt quả. Một số có nguồn gốc động vật như xương,
răng cũng được bảo quản rất tốt. Trong khi đó tóc,
thịt, da lại bị phân hủy mạnh. Những đặc tính trên gợi
ý cho sử dụng dung dịch SO3 với nồng độ khác nhau
để khảo cứu độ phân hủy lụa (một sản phẩm chứa

nhiều protein do con tằm tạo ra). Việc dự đoán lụa có
cơ sở, do bằng chứng người Việt cổ Đông Sơn sử
dụng lụa trong may y phục. Trong ngôi mộ Châu Can
2000 M1, nơi tìm được mảnh vải đăng-ten này, đã
phát hiện dấu in của vải lụa trên một miếng đồng tùy
tán.



Những kết quả thử nghiệm:

1. Rút các sợi vải tạo đăng-ten của vải gai và vải lanh
tại hai xưởng thực nghiệm ở Quản Bạ (Hà Giang) và
Vạn Phúc (Hà Tây). Sợi được rút theo chiều dọc
tương ứng với chiều của những sợi bị mất trong hiện
trạng khảo cổ. Kết quả cũng tạo ra những miếng vải
tương tự. Thậm chí cả giặt vò thử cũng thấy độ lượn
sóng ở khoảng sợi được rút như trong tiêu bản gốc.

2. Thử nghiệm được tiến hành xem độ bảo tồn của
các loại sợi thông qua việc ngâm vải dệt bằng những
sợi tương ứng trong dung dịch SO3 có nồng độ và
thời gian khác nhau. 12 mẫu vải được dùng cho 2 đợt
thí nghiệm. Đợt 1: dùng lụa có tuổi từ 40 – 50 năm
nay và hai mẫu lụa cổ từ thế kỉ XVII, XVIII của hoạn
quan Nguyễn Bá Khang ở Khoái Châu, Hưng Yên.

Kết luận:

1. Trong môi trường chứa SO3, sợi tơ tằm có xu

hướng bị phân hủy. Tuy nhiên chỉ với hàm lượng từ
10% trở lên, sợ tơ tằm mới bị phân hủy rõ, như vậy ta
có thể quan sát trong thời gian vài tuần. Khi nồng độ
SO3 cao tới 40% có thể thấy quá trình biến đổi của
sợi tơ tằm. Sợi lanh Cannabis cũng bị SO3 phân hủy
nhưng chậm hơn nhiều. Riêng sợi gai Boehmira hầu
như không bị phân hủy.

2. Việc dùng các loại sợi có nguồn gốc khác nhau để
dóng sợi dọc trên khung dệt nhằm mục đích trang trí
là đã thấy trên những miếng vải có nhuộm sợi chàm
indigo tìm được trong vùng mộ Động Xá. Điều trên
cho thấy khả năng dùng sợi có nguồn gốc tơ tằm xen
lẫn sợi gai để dệt ra vải có chất lượng cao và mang
tính chất trang trí là hoàn toàn có khả năng diễn ra ở
thời kì Đông Sơn. Quan sát dân tộc học ở những tiêu
bản cạp váy cổ của người Mường, chúng ta thấy họ
cũng sử dụng phương pháp kĩ thuật này để dệt rang
trên rang dưới cho cạp váy. Những người Mường bây
giờ không còn dùng sợi gai nữa mà thay thế bằng sợi
bông (cotton). Những miếng vải đăng-ten tìm được
trong mộ Châu Can và Động Xá khoảng trên 40 tiêu
bản là loại vải gai (Động Xá) và lanh (Châu Can),
kiểu dệt phối hợp những sợi tơ tằm bằng cách dóng
sợi ngang xem lẫn trong những sợi dọc. Các khoảng
cách sợi dọc bằng gai có thể đếm được dễ dàng trên
tiêu bản Động xá, thường là 3, 6, 10. Các khoảng sợi
tơ tằm cũng khoảng 3, 6, 10, 20.

Những phát hiện và khảo cứu đã cho phép khẳng

định cụ thể thêm việc sử dụng phổ biến sợi tơ tằm ở
thời kì Đông Sơn, đặc biệt sử dụng trong kĩ thuật
trang trí dệt vải, cũng như lụa để dùng trong trang
phục. Vậy có thể nói rằng, trong những thế kỉ trước
công nguyên người Việt cổ đã biết dệt vả và quan
tâm tới các trang phục.

Bảng nghiên cứu kết quả trong 2 thí nghiệm ngâm vải
lụa trong dung dịch SO3 và những niên đại tuyệt đối
dựa trên phương pháp khoa học C14 ở một số di chỉ
văn hóa Đông Sơn.

Thí nghiệm 1:

Tìm nồng độ môi trường SO3 mà hòa tan được các
mẫu vải lụa 1 – 6 kết quả cho trên bảng 1:

Mẫu số 1: lụa Hà Đông năm 1990 (silk 100%)
Mẫu số 2: lụa vân Hà Đông năm 1970 (silk 100%)
Mẫu số 3: lụa Hà Đông năm 2003 (silk 100%)
Mẫu số 4: lụa Hà Đông năm 1950 (silk 100%)
Mẫu số 5: lụa Việt Nam TK XVII (silk 100%)
Mẫu số 6: gấm Trung Quốc TK XVII (silk 100%)

Thí nghiệm 2:

Kiểm chứng độ hòa tan các mẩu vải 1 – 6 ở nồng độ
dung dịch SO3 40%, kết quả cho trên bảng 2.

Về niên đại tuyệt đối dựa trên phương pháp khoa học

C14 ở một số di tích văn hóa Đông Sơn cho kết quả
giám định như sau:

Chùa Thông: ZK[2] 309: 2655 +- 90 BP
Việt Khê:
B/n[3] 950: 2480 +- 100 BP
B/n 2227: 2415 +- 100 BP
B/n 1449: 2320 +- 100 BP
Chiền Vậy: B/n 983: 2350 +- 100 BP
Quỳ Chữ:
B/n 2090: 2520 +- 55 BP
B/n 2092A: 2450 +- 55 BP
Đồng Ngầm: B/n 2448: 2675 +- 40 BP
Gò Mun mộ ĐS: B/n 1287: 2385 +- 60 BP
Châu Can: B/n 1435: 2325 +- 60 BP
Châu Sơn: B/n 1874: 2285 +- 45 BP
Làng Cả: B/n 1783: 2235 +- 40 BP
Phú Lương:
B/n 3538: 2150 +- 60 BP
B/n 3539: 2060 +- 60 BP
Làng Vạc: 1990 +- 85 BP
Bái Tê: ZK 377: 1940 +- 80 BP
Núi Nấp: ZK 378: 1670 +- 85 BP

Qua các số liệu sai số cộng trừ dao động. Độ chính
xác từ 50 đến 100 năm trên thời gian hàng ngàn năm,
ta có thể thấy văn hóa Đông Sơn tồn tại khoảng thế kỉ
VII hoặc VIII TCN đến thế kỉ III SCN. Niên đại này
hoàn toàn phù hợp với nền văn hóa Đông Sơn của
nước Văn Lang thời Hùng vương đã xuất hiện trong

lịch sử người Việt cổ (trước và sau khi có cuộc tiếp
xúc với văn hóa Hán – Trung Hoa). Những di tích
khảo cổ đã tìm thấy góp phần nhận diện xã hội thời
Hùng vương trên đất nước Việt Nam thời cổ đại, đây
là những minh chứng rõ nét cho chính sử Việt Nam
có một xã hội văn minh xã hội sông Hồng, nơi có nền
nông nghiệp lúa nước phát triển và kinh tế đa dạng đã
tồn tại ở khu vực Đông Nam Á từ thời xa xưa.

Trong trang phục thời Đông Sơn không thể không
nhắc đến các loại khuy cài, khuy móc. Có thể kể trên
10 chủng loại khuy cài từ to đến nhỏ. Loại to có thể
dài khoảng 7cm, loại nhỏ 2cm, có nhiều hình dạng
cài móc và có mũ khuy khác nhau. Có khuy mang
hình dáng thuyền hoặc mỏ chim, một đầu dài ra và
khoằm xuống vào khuy đồng bên kia mép áo.
Thường ở giữa khuy có một đanh tán để ấn định vị trí
khuy bám chắc vào vải hoặc đồ da. Hình dáng các
khuy nói chung khỏe và thô. Có khuy được đúc trang
trí hình đầu mỏ chim, có dạng hơi bẹt, thân hình bầu
dục kéo dài và có mỏ quặp xuống. Có loại khuy móc
hình tròn, thân như chiếc đĩa được uốn cong rồi quặp
xuống. Căn cứ từ những khuy này cho thấy đồ trang
phục phải là các loại phải dày hoặc đệm nhiều lớp,
hoặc bằng da, lông thú mới không bị khuy làm rách
trang phục. Trong những khuy được phát hiện còn
thấy rõ một lớp mạ vàng ở phía ngoài, chứng tỏ đây
là khuy dùng cho tầng lớp quý tộc, thủ lĩnh cấp cao,
Lạc Hầu, Lạc Tướng. Thời Pháp khảo cổ học đã tìm
thấy một lưỡi rìu xéo bằng đồng ở Quốc Oai, Hà Tây,

được mạ vàng dài 14,5 cm – kí hiệu H723, hiện được
lưu giữ tại Bảo tàng nghệ thuật Bỉ ở Brussel. Tại bảo
tàng nhân chủng học Áo Volkerkund ở thủ đô Vienna
cũng lưu giữ một lưỡi rìu xéo bằng đồng thau mạ
vàng 12cm x 11cm – kí hiệu 179.161. Cả hai lưỡi rìu
này đều trang trí hình người chèo thuyền kèm hình
ảnh chó săn và hươu trong khung khoa văn ô trám.
Chiếc rìu xéo tìm được ở Vinh Quang – Hà Tây, dài
14cm tồn tại ở thế kỉ V TCN hiện lưu tại Bảo tàng
Lịch sử thành phố Hồ Chí Minh, mã số 15857 cũng
có những hoa văn tương tự. Những lưỡi rìu xéo ở thế
kỉ V TCN của Đông Sơn cho ta nhiều điều suy nghĩ
về một xã hội phát triển, phải chăng là tượng trưng
cho một quyền uy cao quý, một báu vật để thờ nên
mới được mạ vàng. Hai lưỡi rìu độc đáo này đều
được người ngoại quốc sưu tầm lưu giữ mà chúng ta
ít được biết tới.
Nội dung ẩn:


×