Tải bản đầy đủ (.pdf) (13 trang)

LỊCH SỬ TRANG PHỤC CÁC TRIỀU ĐẠI TRONG KIẾN VIỆT NAM - PHẦN 1 ppsx

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (200.71 KB, 13 trang )

LỊCH SỬ TRANG PHỤC CÁC TRIỀU ĐẠI
TRONG KIẾN VIỆT NAM
Lời nói đầu

Lịch sử phát triển của dân tộc được ghi nhận trong
nhiều truyện thần thoại. Theo huyền sử Lạc Long
Quân và Âu Cơ, đến đời vua Hùng thứ 18 nước ta
phát triển thành một quốc gia văn minh với nền văn
hóa Đông Sơn, cư dân nông nghiệp lúa nước sông
Mã, sông Hồng. Trong sách “Đại Việt sử kí toàn
thư”, sử thần Ngô Sĩ Liên viết:

“Thời Hoàng đế dựng muôn nước, lấy địa giới Giao
Chỉ về phía tây nam xa ngoài đất Bách Việt. Vua
Nghiêu sai Hy Thị đến ở đất Nam Giao để định đất
Giao Chỉ ở phương Nam. Vua Vũ chia chín châu thì
Bách Việt thuộc phần đất Châu Dương, Giao chỉ
thuộc về đấy. Từ đời Thành Vương nhà Chu 1063 –
1026 TCN mới gọi là Việt Thành, tên Việt bắt đầu có
từ đấy”[1].

Lạc Long Quân lên ngôi Hùng Vương lấy đặt quốc
hiệu là Văn Lang. Trải qua hơn một thiên niên kỉ, vua
truyền ngôi cho Thục Phán, ông dựng hai cột đồng
trên núi Nghĩa Lĩnh thề sẽ tiếp tục giữ nước và thờ
vua Hùng. Thục Phán xưng hiệu là An Dương
Vương, đổi quốc hiệu là Âu Lạc năm 158 TCN. Nhờ
những thư tịch cổ đại Trung Hoa và thư tịch cổ thời
tự chủ của Đại Việt cho biết: từ thế kỉ X, nước ta bắt
đầu phục hiện lại quá khứ của dân tộc sau giai đoạn
bị ngoại xâm một ngàn năm Bắc thuộc. Qua nhiều


triều đại với các sử thần danh tiếng viết trong sử sách
nhằm tôn vinh quá khứ lịch sử dân tộc, tiếp nối
truyền thống con cháu Rồng Tiên trải mấy ngàn năm
dựng và giữ nước.

Vào những năm đầu thế kỉ XX, các nhà khoa học và
khảo cổ ở trong và ngoài nước đã phát hiện nhiều di
vật của nước Văn Lang cổ đại giai đoạn Hùng Vương
thuộc văn hóa Đông Sơn. Năm 1929, với những hiện
vật thu được ở làng Đông Sơn, kết hợp cùng những di
vật do các nhà nghiên cứu Pháp tìm thấy ở lưu vực
sông Hồng, các học giả về Đông Nam Á trên thế giới
đã biết đến “thời đại đồng thau ở Bắc Kì và Bắc
Trung Kì” qua bài viết của Gloubew. Năm 1934, R.
Heini Geldern, nhà nghiên cứu người Áo lần đầu tiên
định danh nền văn hóa đó là “văn hóa Đông Sơn”.
Cùng với Gloubew, Geldern coi văn hóa Đông Sơn
có vai trò của “văn hóa Mẹ”, đây như một cái nôi
xuất phát và là trung tâm của vùng Đông Nam Á.
Những di vật “văn hóa Đông Sơn” đã được người
Việt Nam biết đến từ lâu, song từ năm 1934 thuật
ngữ “văn hóa Đông Sơn” mới được bắt đầu sử dụng
chính thức. Cuộc tìm hiểu, khảo cứu văn hóa Đông
Sơn của các nhà nghiên cứu Việt Nam cũng đã được
bắt đầu.

Khi miền Bắc hoàn toàn giải phóng, năm 1957 giáo
sư Đào Duy Anh đã nghiên cứu và coi văn hóa Đông
Sơn là văn hóa đồ đồng của người Lạc Việt, người
Lạc Việt được coi là tổ tiên của người Việt Mường.

Từ năm 1960 nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa đã
tổ chức nghiên cứu đồng bộ các ngành khoa học
trong 10 năm với những phương tiện khoa học phát
triển để khảo cứu hệ thống những di vật cổ đại đã tìm
được trong lòng đất, xác định niên đại trống đồng,
thạp đồng, các đồ sinh hoạt, giáp, vũ khí, lưỡi cày
v.v… Trên các hiện vật đã xuất hiện một nền mỹ
thuật cổ đại xa xưa. Các hiện vật từ khởi thủy đến
thời kì phát triển đã dùng nhiều chất liệu: đá, đồng,
thủy tinh, vàng, ngọc… Đặc điểm văn hóa hiện lên
qua các di vật cổ được gọi là văn hóa Đông Sơn. Qua
đây có thể hình dung được diện mạo trang phục, hiểu
biết những nét cơ bản về phong tục, tập quán, lễ hội
của người Việt cổ và nhận thức được tầm quan trọng
của văn hóa Đông Sơn trong tiến trình lịch sử dân
tộc.

Từ những hiện vật khảo cổ trong lòng đất, dưới biển
khơi, chúng đều lưu giữ những nét văn hóa vật chất
cụ thể, mang đậm yếu tố bẳn sắc truyền thống, được
thể hiện bằng hình thức có tính mỹ thuật cao và có
giá trị nhiều mặt trong đời sống xã hội. Lịch sử phát
triển dân tộc Việt Nam nối tiếp qua các triều đại,
trong đó hình thành thiết chế văn hóa, hình thức trang
phục của vua chúa, bách quan, quân đội và nhân dân.
Do nạn ngoại xâm với chính sách đồng hóa, tiêu hủy
nhiều thư tịch cổ nên chúng ta tìm lại các tư liệu cũ
rất khó khăn. Đầu thế kỉ XIX, sử gia Phan Huy Chú
khi khảo cứu về lễ nghi, trang phục đã viết: “Từ đời
Lý, Trần mũ áo vua thế nào không thể khảo cứu

được. Lý Thái Tông mới chế thử mũ gọi là “Bát giác
tiêu dao” bằng vàng nay không khảo cứu được”. Sách
Sử kí toàn thư có đoạn mô tả gần nửa trang có cả kích
thước mũ viễn du thời Trần mà họa sĩ cũng không nổi
mũ viễn du ra sao…”. Chính vì vậy đề tài nghiên
cứu, thiết chế trang phục này là một công trình khảo
cứu đầu tiên, phải vượt qua rất nhiều khó khăn.

Công việc khảo cứu đòi hỏi nghiên cứu sâu về mỹ
thuật cổ, sưu tầm khảo cứu nhiều tranh tượng và các
hiện vật cổ trong các ngôi mộ quan lại. Những ngôi
mộ cổ thời Lý như một của thứ phi Lê Xuân Lan vợ
vua Lý Thần Tông và mộ Lê Văn Thịnh không cho ta
gì về thông tin trang phục, vì thời Lý phổ biến tục
hỏa táng trong tầng lớp quý tộc. Mộ thời Trần cũng
được khảo cổ học nghiên cứu như mộ các hoàng hậu:
Thuận Thiên, Thiên Cảm, Tuyên Từ. Một số mộ quý
tộc như mộ Phạm Lễ ở Thái Bình, quan tài được sơn
son thếp vàng, nhưng thi thể đã mủn nát, trong quan
tài chỉ có ba chóe sứ và 60 đồng tiền thời Đường,
Tống và một hộp nhỏ bằng bạc. Căn cứ vào cấu trúc
mộ và hình vẽ trên quan tài này có thể chứng minh
đây là mộ quý tộc thời Trần. Vào những năm cuối
của thế kỉ XX, khi đào thủy lợi đã phát hiện được mộ
vua Lê Dụ Tông, sau đó là mộ của Phạm Thị Nguyên
Chân (mộ Vân Cát), mộ Hoàng Đức, mộ Dương Xá,
mộ Bái Trạch, Hà Long, mộ Mê Linh, mộ Triết
Vương Trịnh Tùng, một quận công Trịnh Liêu và
nhiều ngôi mộ khác, tất cả đã hiện dần ra hình ảnh
triều phục, quan lại, vương triều Lê Trịnh. Những

triều phục được bảo quản tốt trong các ngôi mộ hợp
chất, nhiều kiểu áo, họa tiết gấm vóc tồn tại cách
chúng ta khoảng bốn thế kỉ đã hé tiết lộ nhiều thông
tin quý báu. Trong những dịp điền dã, tác giả cuốn
sách này đã trực tiếp tham khảo những chiếc áo triều
phục được bảo quản của các dòng họ danh gia vọng
tộc thời Lê Trịnh và thời Nguyễn. Ngoài ra còn kể
đến những khảo cứu một số trang phục nằm trong các
bảo tàng và các sưu tập tư nhân trong và ngoài nước.
Việc giải mã được những trang phục này, phải hiểu
biết sâu sắc về họa tiết, đặc điểm của gấm vóc trong
từng giai đoạn lịch sử, bởi chúng có liên quan đến
quan chế từ thế kỉ XVIII trở về trước.

Tác giả kiêm chủ nhiệm đề tài nghiên cứu về các
thiết chế văn hóa nghi lễ và trang phục các triều đại
phong kiến Việt Nam (giai đoạn từ thời Hùng Vương
đến đời Lý, Trần). Trong một thời gian dài nhiều
năm, tác giả đã thu thập nhiều tư liệu, hiện vật, văn
bản, gia phả, tranh tượng có giá trị cho công việc
khảo cứu của mình.

Những giá trị của hiện vật trang phục, cụ thể về mũ,
áo, đai, hia, hốt cũng được tác giả nghiên cứu, so
sánh, tìm ra những đặc điểm và chuyển ra các nét vẽ
đồ họa, mẫu hoa văn, họa tiết, kiểu áo mũ. Trang
phục Lý, Trần đã được làm rõ và tìm thấy một số đặc
điểm. Nhiều bộ sách nói về lễ nghi, trang phục cũng
được tác giả tìm hiểu kĩ để so sánh với các trang phục
của Trung Quốc, Triều Tiên, Nhật Bản. Nhiều tranh,

tượng cổ đã giúp ích cho tác giả nghiên cứu trang
phục các triều đại xa xưa. Đặc biệt một số tài liệu và
tranh vẽ của các giáo sĩ, thương nhân phương Tây
(Tây Ban Nha, Hà Lan, Anh, Pháp) tới Đông Kinh,
Kẻ Chợ vào thế kỉ XVII, XVIII ghi chép về đất Việt
xưa là tài liệu vô cùng giá trị giúp tác giả trong
nghiên cứu.

Đề tài nghiên cứu khoa học cấp Bộ này đã được tác
giả khảo cứu và bảo vệ thành công ở Bộ Văn hóa
ngày 16 tháng 12 năm 2003 (quyết định số
4391/QĐBVHTT).

Hội đồng khoa học đã đánh giá cao và ghi biên bản
như sau:

- Đề tài “Các thiết chế văn hóa nghi lễ và trang phục
các triều đại phong kiến Việt Nam” là đề tài mới, khó
và rất cần thiết, có giá trị thực tiễn cao.

- Đã tập hợp được những tài liệu khá phong phú,
đáng tin cậy và xếp đặt các vấn đề một cách có hệ
thống.

-Đã trình bày những thiết chế nghi lễ và trang phục
của từng thời kì lịch sử và phân tích cơ sở văn hóa,
kinh tế, xã hội trong từng thời kì. Đã nêu được bản
sắc riêng của dân tộc, được biểu hiện về cảm quan
thẩm mĩ và óc sáng tạo của người Việt.


- Những minh họa hình bằng ảnh và hình vẽ khá
chuẩn xác và kĩ lưỡng, giúp người đọc hình dung
được dễ dàng những gì được trình bày.

- Thư mục dẫn ra nhiều tài liệu tốt, đặc biệt là những
công cụ hoặc khảo cứu của Trung Quốc về các triều
đại nhằm so sánh và phân tích cũng như đưa ra những
giả thuyết cho trang phục các triều đại phong kiến
Việt Nam.

- Hội đồng cho rằng nội dung công trình đã đáp ứng
được yêu cầu của đề tài và là tài liệu tham khảo tốt
cho các nhà sáng tác, nghiên cứu nghệ thuật và văn
hóa dân tộc.

Hội đồng cũng ghi nhận sự lao động nghiêm túc,
công phu, tâm huyết của tác giả.

Cuốn “Lịch sử trang phục các triều đại phong kiến
Việt Nam” là bước đầu tiên tập hợp các tư liệu về
trang phục cổ của người Việt qua các triều đại. Sách
có sử dụng nhiều tư liệu khá phong phú, trong đó có
sự đóng góp nhiều tư liệu quý của nhà khoa học
Trịnh Quang Dũng ở thành phố Hồ Chí Minh. Mặc
dù có nhiều cố gắng, song không thể tránh khỏi
những hạn chế và thiếu sót, cần nghiên cứu bổ sung
cho đề tài này ngày càng hoàn thiện hơn.

Tác giả xin chân thành cảm ơn Giáo sư sử học Lê
Văn Lan, Tổng thư kí Hội khoa học lịch sử Dương

Trung Quốc, Tiến sĩ đệ tam Đặng Thị Bích Ngân,
họa sĩ Trương Quốc Lập, họa sĩ Nguyễn Hữu Ngọc,
Phó giáo sư tiến sĩ Nguyễn Văn Huy – những người
đã đóng góp ý kiến quý báu cho cuốn sách này, đồng
thời cám ơn chương trình tài trợ Giữ gìn di sản văn
hóa của công ty Ford Việt Nam 2005 và NXB Văn
hóa – Thông tin đã tạo điều kiện cho cuốn sách sớm
ra mắt bạn đọc.

Tác giả rất mong nhận được những ý kiến đóng góp
của đông đảo bạn đọc để có thể hoàn thiện hơn công
việc của mình đang làm nhằm tôn vinh văn hóa trang
phục Việt Nam từ truyền thống đến hiện đại.
Hà Nội, ngày 25 tháng 12 năm 2005
Tác giả Trịnh Quang Vũ

×