Tải bản đầy đủ (.pdf) (3 trang)

Bệnh viêm tụy cấp pptx

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (123.27 KB, 3 trang )

Bệnh viêm tụy cấp

Mặc dù bệnh viêm tụy cấp (VTC) đã được biết đến từ thời cổ đại, nhưng
phải đến giữa thế kỷ XIX, sự quan trọng và sự trầm trọng của các rối loạn
viêm nặng nề trong VTC mới được đánh giá rõ ràng.

Phẫu thuật can thiệp trong VTC có hoại tử hay áp xe tụy được Senn [40]
tiến hành năm 1986. Năm 1889, Fitz [40] là người đầu tiên mô tả một
cách rõ ràng về lâm sàng và bệnh học của VTC. Năm 1901, Opie [40]
phát hiện khi mổ tử thi VTC do sỏi kẹt bóng Vater ở một bệnh nhân (BN)
tử vong do Halsted mổ cấp cứu.

Ở Việt Nam, VTC được Hồ Đắc Di và Tôn Thất Tùng phát hiện từ năm
1935 tại khoa Ngoại (BvYersin) trường Đại học Y khoa Hà Nội. Trên 35
trường hợp VTC được nghiên cứu (1935-1945) cho thấy thể thường gặp
nhất trong VTC là thể phù nề, còn lại là VTC thể nặng có kèm hoại tử
tụy.

Trải qua hơn một thế kỷ, những nghiên cứu và hiểu biết về bệnh học,
những tiến bộ về kỹ thuật chẩn đoán và các phương pháp điều trị đã có
nhiều tiến bộ. Các chỉ định điều trị và cách sắp xếp phân loại cũng như
những yếu tố tiên lượng cũng được xem xét đánh giá bổ sung.

PHÂN LOẠI VTC

Từ trước đến nay đã có rất nhiều cách phân loại VTC, bao gồm :

1 Phân loại Marseille (1963) : phân loại này chia VTC làm 4 thể :

- VTC
- VTC tái phát


- Viêm tụy mãn tái phát
- Viêm tụy mãn

Thực tế qua nhiều năm, những giới hạn của cách phân loại này khó phân
biệt và dễ nhầm lẫn về lâm sàng giữa VTC tái phát và viêm tụy mãn tái
phát.

2 Phân loại Cambride-Marseille (1983-1984) :

Phân loại này dựa vào các kết quả đánh giá về chức năng tụy, về siêu âm,
chụp cắt lớp (CT Scan), nội soi mật tụy ngược dòng. Phân loại mới này
chỉ còn phân biệt VTC và viêm tụy mãn, kèm theo những thay đổi về mặt
hình thái học của tụy. Mặc dù phân loại đã có thể hiện sự tiến bộ có giá trị
nhưng vẫn còn những giới hạn chung của tất cả các phân loại.

3 Phân loại Mayence (1985) :

Phân loại này dựa theo hình thái học tổn thương tụy. Từ cuối năm 1970,
siêu âm và CT Scanner đã được sử dụng khá thường xuyên trong những
trường hợp lâm sàng nghi ngờ VTC. Các mức độ nặng hay nhẹ dựa trên
các yếu tố lâm sàng và kết quả chụp CT Scanner.

4 Phân loại theo LS, chụp CT Scanner và vi khuẩn :

Dựa trên các dữ liệu LS, chụp CT Scanner và xét nghiệm vi khuẩn trên
1000 BN VTC thể nặng, nhóm nghiên cứu của Uhl, Berger đã mở rộng
cách phân loại VTC của Mayence, phân chia VTC ra 4 loại :

- VTC phù mô kẽ
- VTC hoại tử : vô khuẩn và nhiễm khuẩn

- Áp xe tụy
- Nang giả tụy

5 Phân loại theo Atlanta (1992) :

Hội nghị quốc tế tổ chức ở Atlanta đã thống nhất VTC chỉ còn 2 thể là
VTC thể nhẹ và VTC thể nặng. Và hiện nay trên LS hầu hết đều sử dụng
phân loại Atlanta.

Theo nhiều nghiên cứu, các kết quả trên LS cho thấy thể phù là thể
thường gặp nhất, chiếm tỷ lệ khoảng 74-80%, diễn biến nhẹ hơn, có thể
tự phục hồi.Trái lại thể VTC hoại tử chiếm khoảng 18-20%, diễn biến
nặng nề, biến chứng trầm trọng và tỉ lệ tử vong cao. Nghiên cứu của
Beger và CS [18] trong 10 trên 118 BN VTC hoại tử được phẫu thuật thì
có 50% BN hoại tử tụy một phần và 25% BN hoại tử toàn bộ tuyến tụy.

Tài liệu bạn tìm kiếm đã sẵn sàng tải về

Tải bản đầy đủ ngay
×