Tải bản đầy đủ (.pdf) (14 trang)

BỆNH VÀNG DA docx

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (138.92 KB, 14 trang )

BỆNH VÀNG DA

Vàng da ứ mật là một biểu hiện lâm sàng của tình trạng tăng nhiều
bilirubin ở máu và là triệu chứng đặc hiệu chỉ điểm cho một bệnh lý ở hệ
thống gan mật.
Chẩn đoán Vàng da ứ mật thường dễ nhưng phải chẩn đoán được nguyên
nhân là do bệnh lý của gan hay của hệ thống đường mật, vì thái độ xử trí
có khác nhau: phần lớn Vàng da ứ mật do gan phải điều trị nội khoa, trái
lại phần lớn Vàng da ứ mật do hệ thống dẫn mật phải điều trị ngoại khoa.
Các phương pháp thăm dò gan mật càng ngày càng tiến bộ, có những
phát minh mới giúp cho sự chẩn đoán nguyên nhân Vàng da ứ mật được
chắc chắn hơn, nhất là trong những trường hợp khó khăn mà chẩn đoán
lâm sàng không thể làm được. trái lại trong những trường hợp điển hình,
bằng lâm sàng đơn thuần, vận dụng đúng đắn một số quy luật kinh điển
về chẩn đoán Vàng da ứ mật, chúng ta cẫn có thể chẩn đoán được đúng
nguyên nhân Vàng da ứ mật.
I. CHẨN ĐOÁN VÀNG DA TẮC MẬT.
1. Chẩn đoán dương tính.
1.1. Vàng da ứ mật rõ: thường để chẩn đoán. Chỉ cần nhận xét:
- Màu da: vàng da, vàng nhiều hoặc ít, thường kết hợp với sạm bẩn.
- Nhưng chủ yếu là các niêm mạc, nhất là niêm mạc mắt, mồm và lưỡi.
- Nước tiểu: sẫm màu, vàng như nghệ.
1.2. Vàng da ứ mật nhẹ: chẩn đoán thường khó khăn hơn, khó nhận định
được dưới ánh sáng đèn vì các niêm mạc chỉ hơi phơn phớt vàng, phải
nhận xét dưới ánh sáng mặt trời mới phát hiện được. Thường phải xác
định bằng xét nghiệm.
1.3. Xét nghiệm:
- Nước tiểu: bằng phản ứng Gmelin với axit nitric nitơ, rỏ từ từ vào cốc
nước tiểu. Nếu có sắc tố mật ở nước tiểu (nghĩa là có Vàng da ứ mật) sẽ
xuất hiện một vòng xanh lá cây ngăn cách giữa hai chất lỏng.
- Máu: định lượng bilirubin máu: bình thường 8-12mg/l, sẽ tăng lên trong


Vàng da ứ mật.
Việc xét nghiệm nước tiểu và máu rất cần thiết để xác định các trường
hợp Vàng da ứ mật nhẹ. Đối với các Vàng da ứ mật rõ, việc định lượng
bilirubin máu vẫn cần thiết, không phải để xác định chẩn đoán (vì lâm
sàng đã rõ) mà để đánh giá mức độ Vàng da ứ mật nhiều hay ít vì có số
liệu cụ thể như thế mới theo dõi được chính xác diễn biến của Vàng da ứ
mật.
2. Chẩn đoán phân biệt.
Chỉ cần phân biệt với các trường hợp vàng da do:
2.1. Uống nhiều quinacrin: người bệnh cũng vàng do, có thể vàng cả gan
bàn chân và gan bàn tay, mức độ nhiều hoặc ít. Da ít vàng hơn, màu sắc
nước tiểu vẫn bình thường. Cũng như trường hơp trên, chẩn đoán phân
biệt với Vàng da ứ mật dựa vào:
- Niêm mạc mắt, mồm, lưỡi không vàng.
- Nước tiểu không có sắc tố mật và bilirubin máu bình thường.
Sau khi xác định Vàng da ứ mật, chẩn đoán nguyên nhân cần phải đề ra vì
chi phối thái độ xử trí: sự nhắc lại giải phẫu sinh lý và sinh bệnh của việc
sản xuất và lưu thông mật sẽ làm cho ta hiểu rõ các nguyên nhân đó.
II. NHẮC LẠI GIẢI PHẪU SINH LÝ VÀ SINH LÝ BỆNH.
1. Sự sản xuất và chuyển biến sắc tố mật.
Sắc tố mật được cấu tạo từ huyết cầ tố của máu. Huyết cầu tố giải phóng
từ các hồng cầu bị hỏng được tích trữ ở lách dưới dạng bilirubin gián tiếp
(còn gọi là bilirubin tự do). Chất bilirubin này theo hệ thống cửa về gan
và được gan chế biến thành bilirubin trực tiếp ( còn gọi là bilirubin kết
hợp), chất bilirubin kết hợp một phần ở lại máu, một phần được thải tiết
theo hệ thống dẫn mật vào ống tiêu hoá. Trong quá trình ở ruột non, sắc
tố mật được biến sang dạng urobilinogen. Urobilinogen sẽ đi theo hai
đường.
- Một phần đi theo ống tiêu hoá xuống đại tràng và thải tiết ra ngoài dưới
dạng stecobilinogen ở phân.

- Một phần theo hệ thống tĩnh mạch cửa trở về gan ( vàng ruột gan) để
phần lớn được gan sử dụng tái sản xuất ra bilirubin, số ít còn lại ở máu sẽ
theo đại tuần hoàn đến thận để được thải ra ngoài theo nước tiểu dưới
dạng uyobilinogen và nếu nhiều sẽ oxy hoá thành urobilin.
Sự chuyển biến của sắc tố mật nói trên cho ta thấy ngay rằng bình
thường:
- Ở nước tiểu: không có sắc tố mật, không có muối mật, không có urôbin,
chỉ có ít urobilinogen.
- Ở phân: bao giờ cũng có Stecobilinogen (được oxy hoá thành stecobilin)
làm cho phân có màu vàng hoặc xanh.
2. Hệ thống gan mật.
Mật được gan sản xuất sẽ theo các vi ti mật quản ở trong tiểu thuỳ đến
các mật quản của khoảng cửa rồi ra ngoài theo ống gan, ống túi mật và dự
trữ ở túi mật, đồng thời được cô đặc lại. Trong các bữa ăn, túi mật co bóp
tống mật trở lại ống túi mật chủ để vào tá tràng. Có 3 điểm cần chú ý:
2.1. Các vi ti mật quản trong tiểu thuỳ gan đi theo song song với các vi ti
huyết quản, chỉ bị ngăn cách bởi cột tế bào (cột Remak).
2.2. Dọc theo các ống gan và ống mật chủ, có những chuỗi hạch chi phối
gan, dạ dày và tuỵ tạng.
2.3. Đoạn cuối của ống mật chủ đi sát vào mặt sau hoặc xuyên qua đầu
tuỵ để vào đoạn hai của tá tràng tại bóng Vater, cùng với ống tuỵ.
3. Sinh lý bệnh, phân loại vàng da và nguyên nhân.
Hiện tượng tăng bilirubin ở máu, gây ra triệu chứng Vàng da ứ mật, có
thể do:
3.1. Sản xuất quá nhiều sắc tố mật. Vì hồng cầu bị vỡ nhiều, giải phóng
quá nhiều huyết cầu tố, tiền thân của sắc tố mật: đấy là Vàng da ứ mật tan
máu (còn gọi là hoàng đản trước gan). Nguyên nhân có thể là:
- Bẩm sinh: bệnh Minkowski Chauffard.
- Mắc phải: do sốt rét, nhiễm khuẩn, nhiễm độc (SH2 và chì), có khi có
huyết cầu tố lạ trong máu.

3.2. Tổn thương tế bào gan: làm cho mật ở các vi ti mật quản dễ thẩm
thấu vào các vi ti huyết quản, mặt khác song song với các tổn thương của
tế bào gan, các vị trí mật quản cũng có thể bị tổn thương, tiết nhiều chất
nhầy làm thành các nút nhầy, gây tắc các vi ti mật quản đó: đây là Vàng
da ứ mật do tổn thương gan ( còn gọi là Vàng da ứ mật tại gan). Nguyên
nhân có thể là:
- Nhiễm virut: viêm gan do virut.
- Nhiễm vi khuẩn,nhất là xoắn khuẩn.
- Nhiểm khuẩn máu.
- Nhiễm độc: photpho, thuỷ ngân, plegomazin, atophan, DDS.
3.3. Cản trở cơ giới trên hệ thống dẫn mật trong hoặc ngoài gan: làm cho
mật không xuống được ống tiêu hoá ứ lại trong gan và thấm vào máu làm
tăng bilirubin máu, gây Vàng da ứ mật: đấy là Vàng da ứ mật tắc mật
(còn gọi là Vàng da ứ mật sau gan). Nguyên nhân có thể là:
- Sỏi: thông thưởng nhất.
- Ung thư: ung thư ống mật chủ, ung thư ống Vater và nhất là ung thư đầu
tuỵ.
- Viêm xơ cứng: viêm xơ cứng cơ ODDi.
- Hạch ở ngoài đè vào ống mật chủ: hạch quanh cuống gan, di căn của
ung thư nơi khác đến hoặc khối u của chính bản thân gan đè vào đường
dẫn mật.
Các nguyên nhân gây ra ba loại Vàng da ứ mật đó có khác nhau;
- Về đặc tính lâm sàng.
- Về các triệu chứng thực thể.
- Các triệu chứng toàn thân kèm theo.
- Cũng như về các xét nghiệm cận lâm sàng.
Cho nên trước một người bệnh Vàng da ứ mật, chúng ta cần phải tiến
hành việc khám bệnh theo một trình tự nhất định.
III. CÁCH KHÁM LÂM SÀNG MỘT NGƯỜI BỆNH VÀNG DA.
Cần chú ý tới một số yếu tố:

1. Tính chất của vàng da.
1.1. Mức độ Vàng da ứ mật. Nhiều hay ít: nhận định chắc chắn và cụ thể
nhất bằng định lượng bilirubin máu. Mức độ Vàng da ứ mật không có giá
trị phân biệt hoàng đản do tổn thương gan hay do cản trở cơ giới hệ thống
dẫn mật. Cản trở cơ giới làm tắc hoàn toàn cò thể gây Vàng da ứ mật
nhiều, nếu chỉ tắc ít thì chỉ gây hoàng đản nhẹ, tổn thương gan cũng vậy.
Tuy vậy mức hoàng đản có thể giúp phân biệt hai loại trên với Vàng da ứ
mật tan máu: trong bệnh tan máu, Vàng da ứ mật thường rất kín đáo,
người bệnh xanh xao nhiều hơn là vàng.
1.2. Màu sắc hoàng đản: có thể vàng sẫm hay vàng nhạt tùy theo mức độ
hoàng đản, nhưng thường:
- Vàng rực, vàng đỏ trong viêm gan do xoắn khuẩn.
- Vàng nhạt kết hợp với xanh xao trong Vàng da ứ mật tan máu.
1.3. Diễn biến của Vàng da ứ mật. Nếu đã tái phát nhiều lần trong tiền sử,
thường dễ làm nghĩ đến làm nghĩ đến Vàng da ứ mật tắc mật do sỏi.
Nhưng nếu người bệnh mới bị lần này là lần đầu tiên thì cần theo dõi diễn
biến.:
- Trong Vàng da ứ mật do tổn thương gan (virut, xoắn khuẩn, hay nhiễm
độc): Vàng da ứ mật xuất hiện, tăng lên dần dần trong một hai tuần, rồi
bớt dần để khỏi hẳn trong một tháng, nếu không có biến chứng gì xảy ra
trong quá trình diễn biến bệnh. Và tất nhiên không tái phát sau này.
- Nếu Vàng da ứ mật tắc mật: diễn biến có khác nhau tuỳ theo nguyên
nhân gây tắc. Nếu tắc mật do sỏi, Vàng da ứ mật tăng lên rồi bớt dần, có
thể khỏi hẳn để rồi tái phát lại sau này khi viên sỏi khác đi xuống gây tắc
mật lại. Trái lại nếu tắc mật do u, Vàng da ứ mật cứ tăng lên mãi, không
bao giờ bớt.
- Trong Vàng da ứ mật tan máu người bệnh thường có những đợt vàng
nhợt kết hợp với xanh xao song song với những đợt tan máu.
2. Biểu hiện toàn thân kèm theo.
Hai yêu tố chính cần để ý hỏi hoặc tìm:

2.1. Sốt:
2.1.1. Thường không có trong:
- Tắc mật do u.
- Tổn thương gan do nhiễm độc.
2.1.2. Bao giờ cũng có mức độ và tính chất khác nhau tuỳ theo các
nguyên nhân dưới đây:
- Viêm gan do virút: có thể chỉ sốt ít: (3705 – 380C), thậm chí có khi
không sốt, người bệnh chỉ mệt mỏi, biếng ăn rồi hoàng đản. Nhưng cũng
có thể sốt nhiều (390 – 400C). có khi kèm theo mê sảng trong các trường
hợp viêm gan nặng do virut, thường tiên lượng rất xấu. Sốt có thể chỉ sốt
nóng, hoặc gai gai rét, cũng có khi rét run nhưng nhiệt độ thường không
giao động theo hình tháp. Trong công thức máu số lượng bạch cầu và đa
nhân trung tính không tăng.
- Viêm gan do xoắn khuẩn: bao giờ cũng sốt và sốt rất cao (390 –
400C)kèm theo mê sảng. Đường nhiệt độ cũng thường theo hình cao
nguyên và trong công thức máu số lượng bạch cầu và đa nhân trung tính
rất tăng.
- Vàng da ứ mật tắc mật do sỏi: phần nhiều đều kèm theo sốt do viêm mật
quản. Đường biểu diễn nhiệt độ rất gợi ý: dao động theo hình tháp, mỗi
ngày có thể vài ba cơn, hoặc một vài ngày lại một cơn rét run rồi nhiệt độ
lên cao sau ba giờ lại xuống lại cho đến khi một cơn rét run và sốt khác
xảy đến (sốt nhiễm khuẩn đường mật). Tất nhiên số lượng bạch cầu và
bạch cầu đa nhân trung tính cũng tăng nhiều.
- Vàng da ứ mật tan máu: có thể kèm theo sốt ít hoặc nhiều do những cơn
tan máu. Bạch cầu bình thường, nhưng hồng cầu giảm nhiều.
2.2. Đau hạ sườn phải: với tính chất một cơn đau quặn gan (đau hạ sườn
phải dữ dội, xuyên qua vai hoặc lên sau lưng, có thể kéo dài vài giờ, tái
phát nhiều lần trong ngày hoặc trong tiền sử đã có nhiều lần bị đau) là
một yếu tố rất có giá trị để chẩn đoán tắc mật do sỏi. Trong trường hợp
điển hình cơn đau quặn gan có đầy đủ tính chất trên, gợi ý ngay chẩn

đoán, nhưng cũng có khi cơn đau không dữ dội, làm cho người bệnh ít
chú ý đến, thầy thuốc cần phải hỏi kỹ người bệnh mới phát hiện được.
Tuy cơn đau quặn gan và sốt rét run là triệu chứng gần như đặc hiệu của
sỏi mật, nhưng cũng có khi cả hai yếu tố này có trong viêm gan cho nên
vấn đề quan trọng không phải ở chỗ có hay không có các yếu tố đó mà là
sự tuần tự xuất hiện trong thời gian của chúng.
- Trong tắc mật do sỏi, thường có một trình tự nhất định: cơn đau quặn
gan sau đó sốt rét run, rồi 1, 2 ngày sau xuất hiện hoàng đản.
- Trái lại trong viêm gan, thường khởi pát bằng sốt sau đó vài ba ngày
hoặc một tuần mới xuất hiện Vàng da ứ mật. Thường không kèm theo
cơn đau quặn gan, người bệnh chỉ thấy ở hạ sườn phải nhiều hay ít, có khi
ngay từ lúc xuất hiện sốt nhưng cũng có khi sau ngày xuất hiện Vàng da
ứ mật.
Ngoài hai yếu tố chính nói trên, cần phải phát hiện thêm các triệu chứng:
2.3. Ngứa: ngứa khá nhiều, người bệnh phải gãi luôn, có khi suốt đêm
làm người bệnh mất ngủ, và thường để lại những vết gãi trên da. Ngứa là
một triệu chứng thường có trong tắc mật, nhất là mật tắc lâu ngày.
2.4. Phân bạc màu trắng như cứt cò: thầy thuốc cần trực tiếp xem phân
người bệnh mới chắc chắn, không nên tin vào lời khuyên của họ, vì người
bệnh bị Vàng da ứ mật nếu ỉa phân trắng cứ nghĩ là vàng, do mắt bị Vàng
da ứ mật nên nhìn cái gì cũng vàng cả. Đây cũng là một triệu chứng đặc
hiệu của tắc mật nhưng cần nhớ là:
- Nó chỉ có trong tắc mật hoàn toàn. Nếu tắc mật không hoàn toàn, phân
vẫn có thễ vàng, cho nên không thể loại được Vàng da ứ mật tắc mật nếu
thiếu phân bạc màu.
- Nó chỉ có giá trị đặc hiệu cho tắc mật nếu kéo dài hoặc tái phát nhiều lầ
vì trong viêm gan giai đoạn đầu, phân người bệnh có thể bạc màu nhưng
chỉ vài ngày là vàng trở lại.
2.5. Chảy máu dưới da và niêm mạc: là những triệu chứng thường có
trong viêm gan nặng, nhất là viêm gan do xoắn khuẩn.

3. Triệu chứng thực thể kèm theo.
Hai yếu tố cần đặc biệt chú ý đến là gan và túi mật:
3.1. Gan: gan to là một triệu chứng thực thể rất có giá trị chẩn đoán hoàng
đản tắc mật, thường to quá bờ sườn 4-5m, có khi nhiều hơn nữa, bờ tròn,
mật độ mềm, ấn hơi tức, giống như gan tim: nếu tắc mật đã lâu ngày, mật
độ gan có thể hơi chắc.
Trong viêm gan hoặc tan máu, gan thường không sờ thấy hay chỉ mấp mé
ra khỏi bờ sườn một ít, mật độ lúc đầu mềm, sau trở nên hơi chắc, bờ
thường sắc cạnh.
3.2. Túi mật: trong Vàng da ứ mật, túi mật to là một triệu chứng đặc hiệu
của tắc mật, nhất là tắc mật do u. nó xuất hiện rất sớm trong các ung thư
đầu tuỵ hoặc ung thư ống mật chính, có khi có trước cả Vàng da ứ mật.
Theo Courvoisier Terria, túi mật to chỉ trong tắc mật do u, trái lại túi mật
không sờ thấy hoặc teo lại trong tắc mật do sỏi; nhưng trên thực tế nhất là
ở nước ta, định luật đó thường không đúng; chúng tôi vẫn gặp những
trường hợp tắc mật do sỏi mà có túi mật to, nhất là ở những người bệnh
mới bị tắc mật 1-2 lần đầu.
Trong viêm gan và tan máu, túi mật đều không to.
Trên đây là hai triệu chứng đặc biệt quan trọng bao giờ cũng phải tìm kỹ
ngoài ra còn phải chú ý phát hiện thêm lách to.
3.3. Lách to: ở người bệnh hoàng đản, sự có mặt của lách to đề ra một số
vấn đề, có thể là:
- Vàng da ứ mật tan máu; cùng với Vàng da ứ mật nhẹ, người bệnh có
thêm lách hơi to,mấp mé bờ sườn.
- Lách to do sốt rét, sẵn có trên người bệnh bị Vàng da ứ mật do viêm gan
hay do tắc mật, do sỏi hoặc u.
- Nhưng cũng có thể là lách to trong bệnh đặc biệt về gan, mật: bệnh
Hanot còn gọi là bệnh xơ gan ứ mật tiền phát.
Khám lâm sàng người bệnh Vàng da ứ mật bao giờ cũng kết thúc bằng
thông tá tràng.

3.4. Thông tá tràng: nếu có 3 loại mật A, B, C ta loại trừ tắc mật:
Nếu chỉ có một thứ mật chảy ra, cần kiểm tra kỹ hơn bằng thông tá tràng
định phút để loại trừ các nguyên nhân do rối loạn vận động đường mật.
Nếu bằng thông tá tràng định mứt, mà ta vẫn không có đủ ba thứ mật, rất
có khả năng là tắc mật.
Với cách khám lâm sàng nói trên, nhận định đúng đắn giá trị và nhất là
trình tự xuất hiện của các triệu chứng, chúng ta có thể sơ bộ chẩn đoán
được đúng nguyên nhân của Vàng da ứ mật. Vai trò của các thăm dò cận
lâm sàng có tác dụng xác định thêm chẩn đoán lâm sàng, và trong những
trường hợp gặp khó khăn sẽ cung cấp thêm một số yếu tố để cùng lâm
sàng giải quyết chẫn đoán.
4. Các phương pháp cận lâm sàng cần làm ở một người bệnh .
Ngoài các xét nghiệm huyết học cần phải làm và cần phải làm khi nghĩ
đến Vàng da ứ mật tan máu mà chúng tôi chỉ nêu ra chứ không nói kỹ ở
đây như:
- Bilirubin máu trực tiếp và gián tiếp.
- Huyết và tuỷ đồ.
- Sức bền hồng cầu.
- Nghiệm pháp Coombs trực và gián tiếp.
- Trước một người bệnh bị hoàng đản do bệnh gan mật ( việc hoặc tắc)
người ta thường tiến hành từng bước các thăm dò cận lâm sàng dưới đây:
4.1. Xét nghiệm sinh hoá học:
4.1.1. Trong Vàng da ứ mật do viêm gan, thường nổi bật các hội chứng
sinh hoá:
- Suy tế bào gan.
- Viêm tổ chức liên kết.
- Huỷ hoại tế bào gan.
4.1.2. trái lại trong Vàng da ứ mật do tắc mật, các hội chứng sinh hoá mói
trên thường không có hoặc rất kín đáo, nhưng hội chứng sinh hoá về tắc
mật lại rất rõ ràng.

Các hội chứng sinh hoá học rất có giá trị giúp ta phân loại Vàng da ứ mật
như trên chúng tôi đã trình bày, nhưng giá trị đó chỉ rõ ràng trong thời
gian đầu của Vàng da ứ mật; nếu Vàng da ứ mật đã kéo dài vài ba tháng,
thường có thêm các tổn thương phối (ví dụ: Vàng da ứ mật tắc mật sau
một thời gian dài thường có thêm tổn thương nhu mô gan và phản ứng và
phản ứng tổ liên kết) làm các hội chứng sinh hoá lẫn lộn nhau, cả hội
chứng tắc mật lẫn các hội chứng khác, làm cho việc nhân định thêm khó
khăn.
Chính trong những trường hợp khó khăn đó nghĩa là các Vàng da ứ mật
kéo dài mà lâm sàng và sinh hoá chưa giải quyết được chẩn đoán, chúng
ta cần sử dụng soi ổ bụng.
4.2. Soi ổ bụng:
4.2.1. Nhờ nhìn được màu sắc của gan, mà phân biệt được Vàng da ứ mật
do viêm gan hay do tắc mật:
- Trong viêm gan,gan thường đỏ (thời kỳ đầu), sau nhợt dần và bao phủ
bởi một lớp fibrin trắng, mỏng.
- Trong tắc mật, gan to có bờ tròn và nhất là có nhiều lốm đốm xanh mật
trên gan.
4.2.2. Nhờ nhìn được bằng mắt, nên có thể nhận định được chắc chắn tình
trạng túi mật: phát hiện túi mật to mà lâm sàng sờ có thể bỏ qua, sự phát
hiện túi mật to ở một gan ứ mật có giá trị chẩn đoán địa điểm tắc:
- Túi mật to: tắc ở ống mật chủ.
- Túi mật xẹp: tắc ở ống gan hay tắc ở trong gan.
Có trường hợp hình ảnh soi ổ bụng không được rõ rệt để giúp ta phân biệt
chắc chắn Vàng da ứ mật do viêm gan với tắc mật, cần phải bổ sung thêm
bằng phương pháp giải phẫu bệnh học.
4.3. Xét nghiệm giải phẫu bệnh học
Bằng sinh thiết gan trong khi soi ổ bụng hoặc sinh thiết mù nếu không có
điều kiện soi ổ bụng.
Tất nhiên việc sinh thiết gan phải tôn trọng các chống chỉ định đã nêu ra

trong bài “ các phương pháp thăm do cận lâm sàng về gan mật”, cụ thể ở
đây là các trường hợp mà lâm sàng đã rõ là tắc mật hoặc khi soi ổ bụng
đã thấy rõ gan to xanh ứ mật.
4.4. Phương pháp Xquang
Chỉ cần đến khi dã xác định là Vàng da ứ mật tắc mật vì chỉ có tác dụng
chẩn đoán nguyên nhân tắc mật, cần kiểm tra:
- Hệ thống dẫn mật và túi mật: để phát hiện sỏi bằng chụp túi mật thường
chụp túi mật có cản quang bằng uống hay tiêm tĩnh mạch.
- Hệ thống tá tràng tuỵ tạng: để phát hiện các u đầu tuỵ hoặc u nóng Vater
bằng chụp dạ dày tá tràng (khung tá tràng) và nhất là chụp tá tràng giảm
trương lực.
5. Các phương pháp khác cần tiến hành ở một người bệnh .
Trong hoàn cảnh thiếu phương tiện để sinh thiết gan soi ổ bụng hoặc thể
trạng người bệnh suy kém, có rối loạn chảy máu nhiều không cho phép ta
áp dụng hai phương pháp trên, chúng ta có thể áp dụng phương pháp;
Điều trị thử bằng: Coctizon là một loại chống viêm nhiễm. Coctizon áp
dụng trên người bệnh vàng da tắc mật thường làm bớt nhanh và nhiều
hoặc hết hẳn hoàng đản nếu Vàng da ứ mật do viêm gan, trái lại ít kết quả
trong Vàng da ứ mật do tắc mật.
Mặc dù các phương pháp thăm dò gan mật ngày càng tiến bộ giúp cho sự
chẩn đoán nguyên nhân Vàng da ứ mật được chắc chắn hơn, tuy vậy cũng
còn những trường hợp mà chẩn đoán nguyên nhân chưa được rõ rệt và lúc
đó bắt buộc phải phẫu thuật thăm dò, thường áp dụng nhất trong những
trường hợp Vàng da ứ mật tắc mật rõ mà bằng các phương pháp trên chưa
xác định được chắc chắn nguyên nhân gây tắc. Nhưng phẫu thuật thăm dò
nếu không xác định ngay được nguyên nhân thì cần phải kết hợp với đo
áp lực hệ thống dẫn mật và chụp hệ thống dẫn mật trong hoặc sau khi mổ
để phát hiện các sỏi mật ẩn ở những nơi kín đáo trong gan và các tổn
thương xơ cứng (viêm xơ cứng Oddi) có thể làm cản trở sự lưu thông
mật.

6. Chẩn đoán nguyên nhân.
1. Trường hợp Vàng da ứ mật thiên nhiên, lách to do tan máu. Người
bệnh thường đến với chúng ta không phải vì Vàng da ứ mật mà vì thiếu
máu mà thường chúng ta cũng dễ nghĩ đến vì:
- Người bệnh xanh nhiều hơn là vàng.
- Lách to.
- Công thức máu chứng tỏ thiếu máu.
- Các thăm dò chức năng gan đều bình thường.
- Trái lại, các thăm dò huyết học về tan máu lại dương tính.
Còn trong các trường hợp Vàng da ứ mật do bệnh gan mật, người bệnh
thường đến với chúng ta vì Vàng da ứ mật rõ hoặc lúc đầu Vàng da ứ mật
kím đáo nhưng sẽ rõ dần sau 1-2 ngày. Chúng ta có thể vận dụng cách
khám lâm sàng và các phương pháp thăm dò nói trên để chẩn đoán
nguyên nhân mà dưới đây chúng tôi sắp xếp thành ba loại chính theo triệu
chứng thực thể.
2. Vàng da ứ mật không có gan to (hoặc gan chỉ mấp mé bờ sườn): tất cả
các loại viêm gan:
- Do virus.
- Do xoắn khuẩn: viêm gan thường kèm theo viêm thận biểu hiện bằng
anbumin, trụ niệu và urê máu cao.
- Do nhiễm khuẩn huyết do bởi các vi khuẩn khác.
- Do nhiễm độc.
3. Vàng da ứ mật có gan to không có túi mật to.
3.1. Không kèm lách to: hoàng đản tắc mật do:
- Sỏi (thông thường nhất).
- U trong gan (ung thư gan kiểu nhẫn) hoặc u ở rốn gan.
3.2. có kèm theo lách to (Hội chứng Hanot) có thể là:
- Các Vàng da ứ mật tắc mật nói trên nhưng xảy ra ở một người sẵn có
lách to do số rét.
- Bệnh Hanoi còn gọi là xơ gan ứ mật tiên phát: cần phải xác định chắc

chắn bằng phẫu thuật thăm dò không thấy cản trở cơ giới trên hệ thống
dẫn mật, nhất là không thấy sỏi mới được đặt chẩn đoán này.
4. Vàng da ứ mật có gan to và túi mật to: chắc chắn là túi mật.
- Thông thường nhất do u: nên nghĩ ngay đến, nếu bệnh cảnh này xảy ra ở
một người lớn tuổi, một cách lặng lẽ âm thầm, không kèm theo sốt,
không kèm theo đau bụng gan.
- Cũng có khi do sỏi. Cần phải kiểm tra kỹ để xác định hoặc loại trừ sỏi
mật nếu bệnh cảnh xảy đến rầm rộ với cơn đau bụng gan và hội chứng
nhiễm khuẩn đường mật.
Trong cách sắp xếp chẩn đoán nguyên nhân nói trên, chúng tôi không đến
tình huống “có hoặc không có cổ trướng“ vì sự có mặt của cổ trướng trên
căn bản không làm thay đổ chẩn đoán nguyên nhân mà chúng tôi đã nêu
ra vì cổ trướng chỉ chứng tỏ:
- Một tình trạng suy gan và tăng áp lực cửa đều có thể gặp trong hoàng
đản do viêm gan hoặc do tắc mật lâu ngày.
- Hoặc một phản ứng màng bụng do một khối u ở gan hay đầu tuỵ.

Tài liệu bạn tìm kiếm đã sẵn sàng tải về

Tải bản đầy đủ ngay
×