Tải bản đầy đủ (.pdf) (5 trang)

ADSL - TỔNG QUAN VỀ MẠNG THUÊ BAO NỘI HẠT part 3 ppsx

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (236.31 KB, 5 trang )

Tổng quan về mạng thuê bao nội hạt Đặng Quốc Anh

11
modem 28,8kbps hay 33,6 kbps cũng không đáp ứng được về tốc độ của nhiều ứng
dụng. Thời gian download một hình ảnh nén JPEG (Joint Photographic Experts Group) là
120 giây. Nền kỹ thuật máy tính thay đổi rất nhanh, các kênh thông tin, máy tính đang
biến đổi để đáp ứng theo nhu cầu khả dung lượng cao ngày càng tăng. Khi các dòch vụ
hình ảnh màu, thoại và video càng hấp dẫn khách hàng thì hạ tầng thông tin hàng
megabit càng trở nên thiết yếu. Liệu người ta có thể trông chờ ở modem tương tự những
bước tiến ở các tốc độ cao hơn cỡ tốc độ đường truyền T1 (1544 kbps) hay E1 (2048
kbps) không? Thật không may, câu trả lời là không. Tốc độ 33,6 kbps của modem tương
tự đã chạm trần tốc độ dữ liệu của modem truyền trên kênh thoại. Tất cả các modem
tương tự đều phải truyền dữ liệu trong kênh 300 Hz – 4000 Hz dành cho âm thoại trong
mạng điện thoại. Tốc độ cỡ 33,6 kbps cần dải thông lớn hơn nhiều. Tuy nhiên, các
modem hiện đại thay vì gởi đi dòng bit chưa qua xử lý lại gởi đi các tín hiệu (symbol), mỗi
tín hiệu đại diện cho một số bit liên tiếp của dòng bit. Chẳng hạn, modem V.32 mỗi lần
lấy 4 bit dữ liệu chưa xử lý thêm vào bit thứ 5 để thực hiện sửa sai tạo thành nhóm 5 bit
được đại diện bằng một trong 32 dạng tín hiệu. Mỗi tín hiệu là một sự kết hợp của biên độ
và phase của sóng mang. Quá trình điều chế này gọi là Quadrature Amplitude
Modulation (QAM). Vì phương pháp điều chế QAM vừa nêu tạo ra 1 tín hiệu cho mỗi
chuỗi 4 bit liên tiếp nên nó giảm dải thông cần thiết xuống còn một phần tư và như vậy
dòng bit dữ liệu 9600 bit/s có tốc độ tín hiệu giảm còn 2400baud và dễ dàng truyền được
trên kênh thoại 4kHz. Vấn đề là bit thứ 5 được thêm vào không làm thay đổi tốc độ dữ
liệu cũng như tốc độ tín hiệu mà chỉ làm tín hiệu được điều chế phức tạp thêm từ 16 trạng
thái lên 32 trạng thái.
Hình vẽ 1.17 minh hoạ các chòm sao mã hoá của các phương pháp điều chế khác
nhau. Trường hợp bên trái minh hoạ điều chế sóng mang đơn giản bằng phương pháp
điều chế nhò phân. Trong phương pháp điều chế này chỉ có biên độ biên độ có giá trò
dương hay không và tốc độ tín hiệu băèng vớ tốc độ dữ liệu. Kỹ thuật điều chế 2B1Q trong
ISDN hay HDSL dùng 4 biên độ biên độ khác nhau cho tín hiệu để đạt hiệu quả 2 lần về
dải thông nhưng cũng lưu ý rằng các mức biên độ cũng gần hơn 2 lần so với trường hợp


điều chế nhò phân. Trường hợp kế tiếp là của phương pháp điều chế QAM bốn trạng thái
với biên độ của sóng mang vẫn không đổi trong khi đó phase là một trong 4 giá trò cho
phép truyền 2 bit cho mỗi tín hiêäu và làm cho tốc độ tín hiệu giảm còn một nửa. Trường
hợp cuối cùng là chòm sao của phương pháp mã hoá điều chế 32-QAM dùng trong
modem V.32. Trong trường hợp này, khi chuyển từ 11000 sang 01101 thì cả biên độ và
phase đều thay đổi. Thay vì gởi một trong hai trạng thái của bit là 1 hay 0 từ luồng dữ liệu
nguyên thủy modem V.32 gởi một trong 32 trạng thái có thể có. Modem thu phải xác đònh
đúng tín hiệu đã được gởi đi dù sự khác nhau của các tín hiệu là nhỏ hơn nhiều so với
trường hợp chỉ gởi đơn giản 1 hay 0. Nếu kênh thoại là hoàn hảo thì không có vấn đề gì
nhưng tất cả mọi đường dây trong mạng thực tế đều có nhiều dạng nhiễu. Cáp xoắn đôi
chạy từ phía khách hàng đến tổng đài có thể bò tác động bởi các bộ đánh lửa động cơ,
máy sấy tóc, đường dây điện lực, đèn huỳnh quang và các dạng phóng điện khác. Tuổi
đời và chất lượng của cáp cũng liên quang rất nhiều tới nhiễu. Cáp cũ bò ngấm ẩm nhiều
sẽ bò nhiễu nhiều hơn cáp mới. Hơn nữa, tất cả các đôi dây khác nhau trong một chão
cáp có khi từ vài trăm đến vài ngàn đôi ghép lại và rò rỉ tín hiệu vào các đôi dây kế cận
mà ta gọi là hiện tượng xuyên kênh (crosstalk).
Tất cả các tác nhân gây nhiễu này tạo thành một nền nhiễu trong mỗi kênh
truyền. Nếu cố gắng phân biệt hai trạng thái giữa 1 và 0 thì tín hiệu phải bò phá huỷ rất
mạnh mới có thể nhận dạng lầm được. Với trường hợp 2 trong 32 trạng thái khác nhau
Đặng Quốc Anh ADSL – Thực tiễn, giải pháp và triển khai

12
của tín hiệu modem V.32 rất gần nhau thì chỉ cần một lượng nhiễu nhỏ cũng có thể phá
huỷ tín hiệu này và làm cho nó giống tín hiệu kia. Các modem tốc độ cao hiện tại vẫn
hoạt động tốt ở tỷ số nhiễu trên hầu hết các kênh điện thoại. Điều đó có nghóa là các
modem 28,8 kbps hay 33,6 kbps có thể hoạt động tốt trên các đường dây có chất lượng
tốt và rất tốt. Tuy nhiên trong nhiều trường hợp các bộ modem hoạt động ở tốc độ thấp
hơn. Nếu hai modem ở hai đầu kết nối đo được tỷ số tín hiệu trên nhiễu nhỏ hơn yêu cầu
chúng sẽ giảm tốc độ modem để bảo đảm kết nối tin cậy. Nếu mọi thứ đều lý tưởng, cáp
điện thoại mới, xuyên kênh không đáng kể, thiết bò chuyển mạch hiện đại thì có thể kết

nối ở tốc độ 33,6 kbps. Trên thực tế, các kết nối modem 28,8 kbps tốt nhất có thể đạt
được tốc độ 26,4 kbps.


Hình 1.17 Các chòm sao mã hoá theo các phương pháp điều chế khác nhau


Tốc độ truyền dẫn tối đa của thông tin số đã được các công trình của
Claude E. Shannon “A Mathematical Theory of Communication” vào năm
1948 và “Communication Theory of Secrecy Systems” vào năm 1949
đăng tải ở tạp chí Bell Systems Technical Journal đề cập đến. Cả 2 công
trình đều được ông xây dựng từ công việc giải mật mã mà ông thực hiện
trong suốt thế chiến thứ II. Ông đã thiết lập những cơ sở toán học cho
truyền dẫn thông tin và rút ra những giới hạn căn bản của hệ thống
thông tin số. Trong các công trình tiên phong này Shannon đã công thức
hoá các vấn đề cơ bản của việc truyền dẫn tin cậy thông tin dưới dạng
xác suất thống kê, sử dụng mô hình các xác suất cho nguồn tin
(information source) và kênh thông tin (communication channel). Dựa
trên các công thức thống kê đó Shannon đã dùng hàm số logarithmic để
đo lượng tin của một nguồn tin. Ông cũng đã cho thấy ảnh hưởng của
giới hạn năng lượng máy phát, giới hạn dải thông kênh truyền và nhiễu
cộng đối với kênh truyền, đưa vào một tham số gọi là dung lượng kênh
(channel capacity) C. Khi tốc độ thông tin R nhỏ hơn dung lượng kênh tin
C thì về mặt lý thuyết có thể đạt được truyền dẫn tin cậy (error-free:
không có lỗi) qua kênh tin bằng việc mã hoá thích hợp. Còn khi tốc độ
thông tin R lớn hơn dung lượng kênh tin C thì không thể truyền dẫn tin
cậy qua kênh tin được mà phải qua một số bước xử lý tín hiệu tại máy
phát cũng như máy thu. Như vậy Shannon đã thiết lập các giới hạn cơ
bản của thông tin và đã khai sinh ra một lónh vực mới gọi là lý thuyết
Tổng quan về mạng thuê bao nội hạt Đặng Quốc Anh


13
thông tin (information theory). Công lao của Shannon đã được đánh giá
là ngang tầm với phát kiến của Nicolaus Copernicus trong thiên văn
(theo J. L. Massey). Giới hạn Shannon cho dung lượng kênh truyền được
xác đònh bởi:






+=
NN
SS
11BwlogBwlogCC
22


Mọi khách hàng sử dụng modem đều rất quan tâm đến tốc độ và độ tin cậy của
modem. Các nhà cung cấp đều cố gắng tiến gần tới giới hạn Shannon. Cho tới tiêu
chuẩn V.32 thì mọi modem đều còn cách xa giới hạn dung lượng này khi mức S/N từ 9 tới
10 dB. Nếu dải thông từ 2400 Hz lên đến 2800 Hz và tỷ số S/N từ 24 dB đến 30 dB thì
dung lượng kênh khoảng 24000 bit/s. Để lấp đầy khoảng cách còn lại cần phải ứng dụng
kỹ thuật sửa sai.
Vào những năm 1950 các modem FSK (Frequency Shift Keying) có tốc độ từ 300
bit/s tới 600 bit/s. Tiêu chuẩn quốc tế của modem bắt đầu từ thập kỷ 60 thế kỷ trước.
Năm 1964 tiêu chuẩn modem đầu tiên của CCITT là V.21 xác đònh đặc tính của modem
FSK tốc độ 200 bit/s và bây giờ là 300 bit/s. Kỹ thuật điều chế đã thay đổi sang QAM 4
trạng thái vào năm 1968 và 16 trạng thái vào năm 1984 bởi V.22bis. Vào lúc đó, một tiêu

chuẩn modem ứng dụng tiến bộ công nghệ mới là V.32 thêm phần đặc tính triệt tiếng dội
(echo cancellation) và mã hoá trellis. Mã trellis được tiến sỹ Gottfred Ungerboeck đề cập
lần đầu tiên và ứng dụng vào modem và thực hiện lấp được một phần ba khoảng cách
còn lại so với giới hạn Shannon. V.32bis được xây dựng trên cơ sở đó và đạt được tốc độ
dữ liệu lên đến 14400 bit/s. Sau đó tốc độ dữ liệu của các modem đã có những tiến bộ
nhanh chóng từ 19200 bit/s lên đến 24000 bit/s rồi 28800 bit/s. Modem mới hơn là V.34
ra đời năm 1996 đã đạt tới tốc độ dữ liệu 33600 bit/s và thực hiện 10 bit trên mỗi tín hiệu.


Hình 1.18 Mdoem tương tự qua mạng điện thoại tương tự

Khi các cuộc đàm thoại điện thoại được số hoá, các tổng đài lắp một bộ mã hoá
chuyển tín hiệu tương tự thành tín hiệu số lấy mẫu tín hiệu thoại 8000 lần mỗi giây và
dùng 8 bit để mã hoá giá trò của mẫu. Ở đầu kia của kết nối diễn ra quá trình ngược lại và
một tín hiệu xấp xỉ gần với tín hiêäu ban đầu được tái tạo. Tuy nhiên, quá trình mã hoá lại
Đặng Quốc Anh ADSL – Thực tiễn, giải pháp và triển khai

14
sản sinh ra một kiểu nhiễu khác đó là nhiễu lượng tử. Khi thực hiện lượng tử hoá, các
biên độ tương tự có thể nằm giữa hai mức lượng tử kế tiếp trong 256 mức lượng tử khác
nhau có được từ lượng tử hoá 8 bit và bộ mã hoá chọn mức lượng tử gần hơn. Ở đầu thu,
mức tín hiệu tương tự được tái tạo sẽ không phải là mức tín hiệu ban đầu mà khác hơn
một chút nên tạo ra nhiễu. Với mục đích truyền thoại thì sự khác biệt này là không đáng
kể nhưng với modem tốc độ cao thì là một vấn đề lớn.


Hình 1.19 Mdoem tương tự qua mạng điện thoại số IDN

Modem 56K sử dụng quá trình lượng tử hoá này. Nhiễu lượng tử là do quá trình
mã hoá PCM. Nếu bỏ qua được giai đoạn mã hoá PCM thì có thể thoát khỏi giới hạn

Shannon. Nếu ta bố trí dữ liệu số chỉ đi qua bộ giải mã trên mạng điện thoại thì dữ liệu sẽ
được chuyển thành tín hiệu 256 mức phát ra từ bộ biến đổi số sang tương tự của bộ giải
mã PCM. Modem sẽ chuyển sang tìm kiếm các mức lượng tử hoá này vốn đã được tiêu
chuẩn hoá. Trên thực tế một vài nơi ở Hoa Kỳ chỉ sử dụng 128 mức lượng tử hoá vì hệ
thống ghép kênh điện thoại số T1 ở Bắc Mỹ sử dụng bit có trọng số nhỏ nhất trong 8 bit
để giám sát kênh và báo hiệu. Để có thể sử dụng modem tại mọi nơi thì thay vì 64 kbps
tốc độ modem là 56 kbps dù hầu hết các nơi trên thế giới đều dùng cả 8 bit cho mã hoá
dữ liệu PCM. Hơn nữa do tín hiệu chỉ truyền từ bộ giảm mã PCM ở mạch giao tiếp thuê
bao của tổng đài đến thuê bao nên có rất ít nhiễu tác động và kết quả là tỷ số tín hiệu
trên nhiễu rất cao trên các đường truyền 56 kbps.Trò ảo thuật ở đây là loại bỏ quá trình
mã hoá PCM và đưa thẳng dữ liệu số đến bộ giải mã. Điều này đòi hỏi kết nối từ nguồn
dữ liệu (các ISP chẳng hạn) đến bộ giải mã phải toàn bộ là số. Modem 56 kbps có thể
vượt qua giới hạn Shannon bằng cách phân biệt 2 chiều thu phát của người sử dụng. Ở
chiều phát tốc độ vẫn là 33,6 kbps. Còn ở chiều thu tốc độ chỉ đạt tới 56 kbps khi ISP
(Internet Service Provider: nhà cung cấp dòch vụ Internet) của họ và các tổng đài của
PSTN phối hợp để tránh bộ lọc PCM ở mạch giao tiếp thuê bao của tổng đài bằng các
đường truyền số T1 (1544 kbps) hay E1 (2048 kbps). Như vậy khi 2 người sử dụng dùng
2 modem 56 kbps truyền số liệu điểm nối điểm thì tốc độ không thể nào đạt được 56
kbps mà chỉ đạt được tốc độ dữ liệu song công đối xứng là 33,6 kbps.
Vào những năm cuối của thế kỷ trước đã xảy ra tình hình không thống nhất của
các tiêu chuẩn modem 56 kbps do 2 hãng sản xuất danh tiếng là U. S. Robotics (bây giờ
Tổng quan về mạng thuê bao nội hạt Đặng Quốc Anh

15
là một bộ phận của hãng 3COM) sử dụng chipset X2 của hãng Texas Instruments và
Rockwell có tiêu chuẩn K56flex. Dó nhiên là hai tiêu chuẩn này không tương thích nhau
và ngành công nghiệp sản xuất modem nhanh chóng bò phân cực theo một trong 2 tiêu
chuẩn trên. Lúc này người sử dụng tại Hoa Kỳ chờ đợi tiêu chuẩn nào sẽ được ISP của
mình chấp nhận rồi mới mua modem theo tiêu chuẩn đó. Nhiều ISP đã chờ đợi tiêu
chuẩn nào sẽ chiến thắng và tiêu chuẩn nào sẽ về vườn. Trong thời gian này một số ISP

mở ra 2 số điện thoại, mỗi số điện thoại cho một tiêu chuẩn và điều này đã làm cho
người sử dụng thấy yên tâm mà mua sắm modem 56 kbps.

Hình 1.20 Modem V.pcm

Tháng 9 năm 1998 ITU-T (International Telecommunication Union –
Telecommunication Standardization Sector một tổ chức thừa kế của CCITT) đã ra tiêu
chuẩn V.90 để thống nhất trên toàn thế giới về modem 56 kbps. Phần cứng của các loại
modem trên không khác nhau mấy nên người sử dụng 2 loại modem cũ có thể chỉ cần
mua con chip nâng cấp cho V.90 để tiết kiệm chi phí còn các modem sản xuất sau đó
đều được chú thích là “Ready for V.90”.


Hình 1.21 Tình hình thu nhập từ modem 56Kbps trên thế giới

×