Tải bản đầy đủ (.pdf) (10 trang)

Hiến pháp Mỹ được làm ra như thế nào ? - [bài 11] Bầu chọn, nhiệm kỳ và sự tái cử của Tổng thống docx

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (165.93 KB, 10 trang )

Hiến pháp Mỹ được làm ra như thế nào ? [bài 11]
Bầu chọn, nhiệm kỳ và sự tái cử của Tổng thống

Ngày 24 và 25 tháng Bảy



Cách thức bầu chọn và nhiệm kỳ của Tổng thống là một điểm quan trọng của bản Hiến
pháp Mỹ. Mọi đại biểu đều lo lắng và mong muốn tìm ra được giải pháp tối ưu để chọn
được một Tổng thống có tư cách đạo đức tốt, không phụ thuộc vào những mưu đồ của
những phe phái khác, cũng như không phụ thuộc vào các thế lực nước ngoài, như sau này
vẫn xảy ra ở nhiều quốc gia khác.
Cũng như hiện nay, việc bầu chọn nguyên thủ quốc gia của rất nhiều nước chịu sức ép
của chính nước Mỹ, điều mà khi đó, các đại biểu đều lo ngại. Giải pháp bầu cử bởi những
đại cử tri là sự thỏa hiệp và sáng kiến của Hội nghị nhằm vừa có những cử tri có chất
lượng, vừa bầu chọn theo tỷ lệ của các tiểu bang, lại không làm cho Tổng thống phụ
thuộc vào Quốc hội.

Đôi khi có cảm tưởng rằng các đại biểu đã quá cẩn thận khi tính đến mọi chuyện có thể
xảy ra, nhưng thực tế lại cho thấy, sự lựa chọn của họ là rất sáng suốt và mọi thảo luận kỹ
lưỡng này đều là nhằm giảm tối đa bất cứ nguy cơ nào có thể phát sinh.

Qui định "Tổng thống được các đại cử tri bầu chọn" được đưa ra xem xét.

Ngài HOUSTON: Đề xuất Tổng thống sẽ được "cơ quan lập pháp quốc gia" bổ nhiệm
thay cho "việc các đại cử tri được các cơ quan lập pháp tiểu bang chọn lựa, để bầu Tổng
thống". Ông cho rằng không thể tập hợp được những đại cử tri ở những vùng quá xa xôi
của đất nước.

Ngài SPAIGHT: Ủng hộ đề xuất này.


Ngài GERRY: Phản đối đề xuất đó vì không thấy những khó khăn nào như Ngài Houston
nói. Việc bầu chọn Tổng thống cần phải được coi là quan trọng đặc biệt vì chức vụ này
kích động lòng khao khát mãnh liệt của nhiều người muốn đạt chức vụ này. Nếu quan
điểm này được đồng ý, cần phải để Tổng thống không thể được tái cử để ông ta độc lập
với cơ quan lập pháp, vì sự phụ thuộc sẽ ảnh hưởng vô cùng xấu xa đến cách suy nghĩ và
hành động của ông ta.

Ngài STRONG: Cho rằng qui định không cho Tổng thống được tái cử là điều không cần
thiết. Nếu Tổng thống được cơ quan lập pháp bổ nhiệm, thì đến khi cuộc bầu cử Tổng
thống lần thứ hai diễn ra, các đại biểu tại cơ quan lập pháp cũng đã được bầu lại rồi. Vì
thế, những người bầu chọn Tổng thống lần thứ hai, không phải là những người đã bầu
ông ta lần thứ nhất.

Có Ngài nói là lòng biết ơn của Tổng thống vì được bầu chọn lần thứ nhất cũng làm cho
ông ta phụ thuộc vào cơ quan lập pháp trong cuộc bầu cử lần thứ hai. Ông lại nghĩ rất
khác. Ngoài ra, lý do phản đối việc để những đại cử tri bầu chọn là vì những người này
cũng sẽ được Tổng thống mang ơn huệ như là đối với cơ quan lập pháp. Điều rất quan
trọng là đừng để chính quyền trở nên quá phức tạp với việc tham gia của những đại cử tri.


Ngài WILLIAMSON: Mô hình ban đầu là Tổng thống có nhiệm kỳ bảy năm và không
được tái cử. Những đại cử tri của các tiểu bang chắc chắn không phải là những người
khôn ngoan nhất. Nên tốt hơn là trao quyền bầu chọn đó cho Thượng viện hoặc Hạ viện.
Ông cũng không tán thành sự đơn nhất trong bộ máy hành pháp. Ông muốn quyền hành
pháp sẽ trao cho ba người từ ba vùng lãnh thổ.

Vì Tổng thống có quyền phủ quyết các đạo luật và có những khác biệt cơ bản về lợi ích
giữa các tiểu bang miền Bắc với các bang miền Nam, đặc biệt là lĩnh vực thương mại. Do
vậy, quyền này rất nguy hiểm đối với những vùng kia nếu Tổng thống chỉ là một ngư
ời từ

một vùng lãnh thổ của liên minh. Bộ máy hành pháp của chúng ta rất khác với chính
quyền của Anh, bởi cả nước Anh có cùng một lợi ích. Một lý do khác là nếu bầu một
người, Tổng thống sẽ trở thành một dạng Vua được bầu và sẽ có tư tưởng độc tôn.

Tổng thống sẽ không chịu sự kiềm chế nào và sẽ tìm cách dọn đường cho con cháu mình
lên kế nhiệm. Ông nghĩ chắn chắc đến một lúc nào đó, nước Mỹ sẽ cần có một vị Vua.
Nhưng ông muốn phòng ngừa để trì hoãn việc này càng lâu càng tốt. Không được tái cử
là điều đề phòng tốt nhất. Với sự đề phòng này, nhiệm kỳ dài trên bảy năm cũng không
có gì đáng sợ, thậm chí, nhiệm kỳ có thể lên tới 10, hay 12 năm

Ngài GERRY: Đề nghị các cơ quan lập pháp tiểu bang sẽ bỏ phiếu bầu Tổng thống theo
tỷ lệ giống như việc bầu cử của các đại cử tri. Trong trường hợp không ai đủ đa số phiếu,
Hạ viện sẽ chọn hai trong số bốn ứng cử viên có nhiều phiếu nhất, còn Thượng viện chọn
Tổng thống trong số hai người này.

Kết quả cuộc bỏ phiếu về đề xuất của Ngài Houston rằng cơ quan lập pháp quốc gia sẽ
bầu chọn Tổng thống:

NH: đồng ý; MA: đồng ý; CT: phản đối; NJ: đồng ý; PA: phản đối; DE: đồng ý; MD:
phản đối; VA: phản đối; NC: đồng ý; SC: đồng ý; GA: đồng ý; (7 bang đồng ý; 4 bang
phản đối, tiểu bang New York khi này không còn đại biểu nào tham dự)

Ngài GERRY: Tổng thống nhất thiết phải độc lập với Quốc hội. Nhiệm kỳ càng dài, càng
ít phụ thuộc. Tốt hơn là để Tổng thống có nhiệm kỳ dài, 10, 15 hay thậm chí 20 năm và
không được tái cử.

Ngài L. MARTIN: Đề xuất viết là "sự bổ nhiệm Tổng thống sẽ có hiệu lực trong 11
năm".

Ngài GERRY: Gợi ý là 15 năm.


Ngài KING: Đề xuất là 20 năm. Đó là thời gian cầm quyền trung bình của một nhà vua.

Ngài DAVIE: Đề nghị tám năm.

Ngài WILSON: Những khó khăn và phức tạp mà Hội nghị gặp phải là vì qui định Tổng
thống sẽ do cơ quan lập pháp bầu chọn. Sự bất lợi của mô hình này buộc ông phải đồng ý
với bất kỳ nhiệm kỳ dài nào để loại bỏ sự phụ thuộc của Tổng thống vào Quốc hội do
cách bầu chọn này gây ra. Ông tin rằng nhiệm kỳ dài nhất cũng không đáp ứng được yêu
cầu, trừ phi Tổng thống có một nhiệm kỳ suốt đời với tư cách đạo đức tốt. Dường như
mọi người cho rằng sau khi giữ chức vụ một thời gian nào đó, viên chức sẽ bớt lòng nhiệt
tình và hăng hái phụng sự công chúng.

Nhưng kinh nghiệm đã cho thấy nhiều tấm gương vẫn đủ năng lực và lòng hăng hái, dù
đã rất nhiều tuổi, như viên Tổng trấn Venice được bầu chọn khi đã ngoài 80 tuổi. Dù các
Giáo hoàng thường được chọn khi đã khá già, nhưng không ở đâu có sự vững chắc và
được điều hành tốt như Giáo Hội La Mã.
Nếu Tổng thống nhậm chức khi chừng 35 tuổi và giả sử ông ta được bầu với nhiệm kỳ 15
năm, thì tại tuổi 50 mới chính là giai đoạn sung sức và có năng lực nhất của cuộc đời.

Nhưng lúc này, khi tích lũy được rất nhiều kinh nghiệm, thì ông ta chắc chắn lại bị bỏ đi,
giống như một kẻ vô dụng. Sự mất mát không thể bù đắp được khi pháp luật nước Anh
qui định rằng 50 tuổi là giới hạn tối đa của năng lực và khả năng phục vụ công chúng.
Một nhân vật sáng chói là Bá tước Mansfield giữ chức vụ của mình trong suốt 30 năm
sau khi nhậm chức năm 50 tuổi.

Ngài G. MORRIS: Trong mọi mô hình, việc để Quốc hội bầu cử là tồi tệ nhất. Nếu Quốc
hội có quyền luận tội, có quyền bổ nhiệm, hay tác động đến việc luận tội, thì Tổng thống
chỉ là “kẻ đầy tớ” cho cơ quan này. Ông từng phản đối việc luận tội, nhưng bây giờ tin
rằng nếu Tổng thống được bổ nhiệm có kỳ hạn thì việc luận tội là cần thiết. Nếu biết

Tổng thống nhận tiền của kẻ thù, thì nhất định ông ta phải bị cách chức. Đại tá Mason
từng nói ông là người hay thay đổi, lúc thì nói tin tưởng vào nhánh lập pháp, lúc thì lại
không tin cơ quan này.

Sự phê phán đó không có cơ sở. Quốc hội đáng tin cậy ở một số khía cạnh, nhưng một số
khía cạnh khác lại không đáng tin. Khi lợi ích của các nghị sĩ trùng với lợi ích của cử tri
thì các đạo luật do họ ban hành đều là tốt đẹp và không đáng sợ. Nhưng khi lợi ích cá
nhân quá lớn, đi ngược lại lợi ích chung của xã hội thì cơ quan lập pháp lại không còn
đáng tin nữa. Mọi nhà nước đều chia thành hai phe phái.

Tổng thống nhất định sẽ thân thiết và gần gũi với phe này hơn phe kia. Do đó, lợi ích cá
nhân sẽ khiến một phe ủng hộ Tổng thống, còn phe kia sẽ chống lại. Nhiều người nói về
những âm mưu tranh giành chức Tổng thống, nhưng không ai nói đến những âm mưu hạ
bệ ông ta. Lãnh tụ của các phe phái luôn thèm khát chiếc ghế đó, nên sẽ tìm cách gây rối
sự điều hành của Tổng thống, sẽ bày đặt âm mưu với Quốc hội, cho tới khi hắn ta giành
được chức Tổng thống.

Đó chính là cách Vua Anh bị hạ bệ và bị thay thế bởi một ông vua thật sự khác là Thủ
tướng. Đó là cách William Pitt tự đặt mình vào vị trí đó. Fox còn đi xa hơn thế. Nếu ông
ta thi hành đạo luật Ấn Độ, điều ông ta định làm, ông ta sẽ trở thành Thủ tướng, cũng có
quyền lớn như Vua nước Anh. Tổng thống của chúng ta cũng giống như Thủ tướng ở
Anh, nhưng lại do cơ quan lập pháp bổ nhiệm.

Nhiều người đã nói về nguy cơ của một nền quân chủ, nhưng bây giờ, nếu một chính
quyền tốt không được thiết lập, nếu một nhánh hành pháp hiệu quả không được tạo ra, thì
chúng ta sẽ gặp những điều còn tồi tệ hơn cả một nền quân chủ có giới hạn. Để loại bỏ sự
phụ thuộc của nhánh hành pháp vào cơ quan lập pháp, chúng ta đã qui định rằng ông ta
không được tái cử. Chúng ta cần phải cho Tổng thống có kinh nghiệm và tận dụng được
những kinh nghiệm này. Nhưng việc cấm ông ta được tái cử lại khiến chúng ta không sử
dụng được những kinh nghiệm đó, dù kéo dài nhiệm kỳ tới 15 năm đi nữa. Liệu ông ta có

sẵn lòng từ bỏ chức vụ này không?

Con đường đạt đến mục đích nhờ Hiến pháp đã bị ngăn chặn, nên ông ta sẽ t
ìm cách dùng
đến gươm giáo. Một cuộc nội chiến tất yếu sẽ xảy ra và người chiến thắng, dù thuộc bên
nào, cũng sẽ trở thành kẻ chuyên quyền trên mảnh đất này. Suy nghĩ này buộc ông đặc
biệt lo ngại chức vụ Tổng thống khó được thiết lập đúng đắn. Những sai trái trong hệ
thống như vậy sẽ khó lòng chữa được và nhánh hành pháp là cơ quan khó cân bằng nhất.
Nếu thiết lập một Tổng thống yếu, Quốc hội sẽ đè bẹp và lấn át ông ta, nhưng nếu thiết
lập một Tổng thống mạnh, ông ta sẽ đè bẹp và lấn át Quốc hội.

Ông tán thành Tổng thống có một nhiệm kỳ ngắn, được quyền tái cử, nhưng theo cách
bầu cử khác. Một nhiệm kỳ dài sẽ làm cho mô hình này khó được dân chúng chấp nhận,
nhưng cần phải làm như vậy. Ông cho rằng cần phải xem xét rất kỹ lưỡng cách thức bầu
cử.

Ngài WILSON: Đề xuất rằng Tổng thống sẽ được chọn cho nhiệm kỳ ______ năm bởi
______ đại cử tri, được chọn bởi cơ quan lập pháp quốc gia".

Ngài GERRY: Điều này rất nguy hiểm. Nếu phiếu bầu lại chọn ra những cử tri tầm
thường, thì Tổng thống được bầu cũng tầm thường và sẽ phá hỏng đất nước này. Mọi mô
hình bầu cử, nếu liên quan tới cơ quan lập pháp quốc gia, sẽ không thể là mô hình tốt
đẹp.

Ngài KING: Đa số dân chúng của cùng một tiểu bang nhất định sẽ bầu chọn Tổng thống
là người tiểu bang mình. Chúng ta cần phải được dẫn dắt bởi sự suy xét khôn ngoan chứ
không thể trông chờ may rủi. Vì không ai hài lòng nên ông đề nghị hoãn lại vấn đề này.

Ngài WILSON: Nhất định đòi phải để dân chúng bầu chọn Tổng thống.




Ngài ELSEWORTH: Đề xuất "Tổng thống sẽ được cơ quan lập pháp bổ nhiệm", trừ
những lần bầu chọn sau này thì sẽ do các đại cử tri chọn ra. Các đại cử tri này lại do các
cơ quan lập pháp tiểu bang chọn lựa. Cách này sẽ cho phép Tổng thống được tái cử,
nhưng không phụ thuộc vào cơ quan lập pháp.

Ngài GERRY: Mọi cuộc bầu cử do cơ quan lập pháp quốc gia tiến hành đều là hoàn toàn
sai lầm và không thể sửa chữa được. Ông đề xuất Tổng thống sẽ do các Thống đốc tiểu
bang bổ nhiệm, với sự tư vấn của các Hội đồng lập pháp, hoặc các đại cử tri do các cơ
quan lập pháp tiểu bang bầu chọn.

Ngài MADISON: Mọi mô hình bầu cử đều vấp phải những trở ngại. Nhưng cuộc bầu cử
hoặc phải do một cơ quan nào đó của tiểu bang, hay liên bang tiến hành, hoặc do một
thẩm quyền đặc biệt do dân chúng quyết định, hay do chính dân chúng. Hai thẩm quyền
khác, hiện đang thiết lập theo bản Hiến pháp này, là Tòa án và Quốc hội, nhưng Tòa án
không thể là cơ quan bầu chọn Tổng thống. Còn việc bầu cử do Quốc hội tiến hành cũng
gặp những trở ngại không thể vượt qua được. Ngoài ảnh hưởng của Quốc hội đến sự độc
lập của Tổng thống thì:

1. Việc bầu chọn người đứng đầu nhà nước chắc chắn sẽ gây chia rẽ và kích động Quốc
hội, tới mức lợi ích chung của đất nước cũng sẽ bị tổn thương nghiêm trọng. Mọi viên
chức chính quyền đều tham gia vào các cuộc tranh luận, hay cãi vã nên dễ sinh ra bạo lực
hơn mọi trường hợp khác.

2. Các ứng cử viên chắc chắn sẽ ngấm ngầm vận động Quốc hội để được phe đa số chọn
lựa. Vì thế, Tổng thống sẽ có khuynh hướng trao quyền hành pháp cho phe phái này,
hoặc qui thuận theo ý muốn của phe này.

3. Các Ðại sứ của ngoại quốc cũng lợi dụng cơ hội này để gây ảnh hưởng và thi hành

nhiều mưu đồ trong cuộc bầu cử này.
Hạn chế quyền lực của nhánh hành pháp là một mục tiêu quan trọng mà các cường quốc
của châu Âu từng cai trị nước Mỹ đeo đuổi. Họ muốn người đứng đầu chính quyền của
chúng ta là một cá nhân gắn bó với lợi ích và nền chính trị của họ.

Không thể kể hết những mối nguy hiểm, nếu trao cho Quốc hội quyền bầu chọn Tổng
thống. Đức và Ba Lan là những ví dụ về mối nguy hiểm này. Tại Đức, việc bầu chọn
người đứng đầu Đế chế vẫn theo cách cha truyền con nối, hiện đang phổ biến ở châu Âu,
nhưng lại chịu ảnh hưởng rất nhiều của các thế lực ngoại bang. Tại Ba Lan, mặc dù người
đứng đầu chính quyền được bầu có rất ít quyền lực, nhưng luôn luôn chịu sức ép và sự
can thiệp rất lớn của các thế lực quý tộc nước ngoài. Trên thực tế, việc này hoàn toàn rơi
vào tay ngoại bang.

Những cơ quan quyền lực hiện nay của tiểu bang là nghị viện, thống đốc và tòa án tiểu
bang. Nhiều người đã phản đối việc các cơ quan lập pháp tiểu bang bổ nhiệm Tổng
thống, nhưng ông muốn nói đến một lý do khác. Những cơ quan lập pháp tiểu bang
thường phản bội lại sự thịnh vượng chung bằng nhiều mưu đồ xấu xa và tầm thường. Vì
thế, một trong những mục đích của Nghị viện Liên bang là kiểm soát xu hướng này.

Quyền phủ quyết mọi đạo luật của Tổng thống chính là nhằm kiểm soát Nghị viện Liên
bang, bởi cơ quan này đôi khi cũng rơi vào tình trạng tương tự như các nghị viện tiểu
bang. Nếu việc bầu chọn Tổng thống do các cơ quan lập pháp bang tiến hành thì mục
đích kiểm soát này không thể thực hiện được. Những cơ quan lập pháp bang sẽ bầu chọn
người nào không chống lại họ.

Đa số các cơ quan lập pháp, vào thời gian bầu cử, thường có cùng một mục đích, hay dù
có những mục đích khác nhau, nhưng đều cùng một hướng, nên Tổng thống thường phải
qui thu
ận ý muốn của họ. Để các Thống đốc tiểu bang bổ nhiệm Tổng thống cũng bị phản
đối vì các Thống đốc tiểu bang cũng âm mưu và thông đồng với các ứng cử viên, với

những người theo phe họ và với những thế lực nước ngoài.

Các tòa án tiểu bang cũng không thể là những người bầu chọn đúng đắn được. Sự lựa
chọn của chúng ta bây giờ chỉ còn là giữa các đại cử tri, đư
ợc dân chúng chọn ra, hay trực
tiếp từ chính dân chúng. Ông nghĩ giải pháp thứ nhất tránh được những phản đối mà
nhiều người đã nói và ưu việt hơn nhiều giải pháp do cơ quan lập pháp quốc gia bầu
chọn.

Những đại cử tri được chọn lựa cho mục đích này, sẽ phải gặp nhau và ngay lập tức tiến
hành việc bầu chọn, nên có rất ít cơ hội và thời gian cho những mưu mô xấu xa, hay
những trò tham nhũng. Cẩn thận hơn nữa, có thể yêu cầu cuộc họp của những đại cử tri
này phải tiến hành xa cơ quan chính quyền và thậm chí qui định rằng không một ai trong
một phạm vi nhất định nào đó được bầu. Tuy nhiên, giải pháp này mới bị đa số bác bỏ
nên có thể sẽ không được đưa ra xem xét.
Giải pháp còn lại là sự bầu cử trực tiếp của dân chúng, hoặc là do một phần dân chúng có
chất lượng, ông tán thành giải pháp này nhất, dù có nhiều điểm không hoàn hảo. Nhưng
giải pháp này gặp khó khăn rất lớn.

Thứ nhất là dân chúng có khuynh hướng lựa chọn công dân của tiểu bang mình và các
tiểu bang nhỏ sẽ phải gánh chịu phần bất lợi này. Cuộc bầu cử Tổng thống có ý nghĩa rất
quan trọng, nên không thể bác bỏ mọi giải pháp được đề xuất.

Nếu được điều chỉnh, giải pháp này sẽ bớt bị chống đối hơn. Thứ hai là sự mất cân đối
của các cử tri có chất lượng giữa miền Bắc và miền Nam nên miền Nam sẽ phải gánh
chịu bất lợi này.

Giải pháp cho vấn đề này sẽ là: (i) Sự khác biệt đó sẽ tiếp tục giảm đi dưới ảnh hưởng
của các đạo luật cộng hòa được thi hành ở các tiểu bang miền Nam và sự tăng dân số
nhanh chóng của vùng này. (ii) Những lợi ích địa phương phải hy sinh cho những lợi ích

quốc gia. Là một công dân của các tiểu bang miền Nam ông sẵn lòng hy sinh vì điều này.


Ngài PINKNEY: Đề xuất giải pháp cơ quan lập pháp sẽ bầu Tổng thống với điều kiện bổ
sung là không người nào được bầu chọn nhiều hơn 6 năm trong bất kỳ giai đoạn 12 năm
nào. Qui định này sẽ mang lại mọi thuận lợi và một mức độ nào đó, loại bỏ được sự bất
lợi, nếu qui định Tổng thống tuyệt đối không được tái cử.

Đại tá MASON: Tán thành ý kiến này. Giải pháp này đã được tiến hành tại một số cuộc
bầu cử Quốc hội và Thống đốc tiểu bang. Đồng thời cũng làm cho Tổng thống trở nên
độc lập giống như qui định không được tái cử, nhưng lại mở ra triển vọng được phục vụ
tiếp trong tương lai. Ông hoàn toàn tán thành việc để Quốc hội có quyền bầu cử, nhưng
cũng thú nhận rằng như vậy rất dễ nguy hiểm do ảnh hưởng của nước ngoài và đó là mối
nguy hiểm gây tai họa nhất.

Ngài BUTLER: Hai điều xấu xa cần phải tránh là những mưu đồ trong nước và ảnh
hưởng của ngoại bang. Nhưng cả hai đều khó tránh nếu việc bầu cử do Quốc hội tiến
hành. Giải pháp tốt nhất là việc bầu cử Tổng thống sẽ do các đại cử tri do các cơ quan lập
pháp tiểu bang tiến hành. Ông phản đối mọi hình thức tái cử.

Ông cũng phản đối việc phân bổ tỷ lệ phiếu bầu đối với các tiểu bang. Mọi tiểu bang cần
phải bình đẳng. Những lập luận về sự cần thiết phiếu bầu theo tỷ lệ dân chúng đối với cơ
quan lập pháp không đúng với nhánh hành pháp nữa.

Ngài G. MORRIS: Phản đối mọi việc quay vòng. Vì điều này sẽ hình thành một nhóm
chính khách. Những mối nguy hiểm cần ngăn chặn trong trường hợp này là: 1. Ảnh
hưởng quá mức của cơ quan lập pháp; 2. Sự bất ổn của các Hội đồng Nhà nước; 3.
Những hành vi và tư cách xấu xa.

1. Để ngăn chặn nguy cơ thứ nhất, chúng ta sẽ rơi ngay vào nguy cơ thứ hai. Nếu chúng

ta chấp nhận sự quay vòng thì điều này sẽ gây ra sự bất ổn trong các hội đồng quốc gia.
Như thể, chẳng khác gì việc "tránh vỏ dưa lại gặp vỏ dừa". Con người thay đổi thì các
biện pháp cũng bị thay đổi.

Chúng ta thấy điều này được chứng minh qua sự thăng trầm của chính chúng ta, nhất là
tại tiểu bang Pennsylvania. Tính tự phụ, tự mãn của phe thắng thế sẽ làm họ khinh
thường những điều mà những người tiền nhiệm của họ đã làm. Rehoboam sẽ không thể
bắt chước Soloman.

2. Sự quay vòng trong nhánh hành pháp không ngăn chặn được những âm mưu xấu xa và
sự phụ thuộc vào nhánh lập pháp. Tổng thống đương nhiệm sẽ trông đợi tới ngày ông ta
được quyền tái cử. Mặc dù con người biết cuộc sống của mình có giới hạn, nhưng cứ
hành động như thể mình sẽ sống mãi. Tính thiếu hiệu quả của giải pháp này cũng rất rõ
ràng.

Nếu Tổng thống không trông đợi đến kỳ được tái cử, chắc chắn ông ta sẽ tìm mọi cách để
tham gia Quốc hội. Ông ta sẽ dễ dàng trúng cử vào cơ quan này, sẽ tận dụng cơ hội đó để
mở rộng quyền lực và ảnh hưởng của mình và không dám làm bất cứ điều gì có thể gây
tổn hại cho uy tín của ông đối với Quốc hội. Vì thế, ông ta sẽ lại phụ thuộc vào Quốc hội.


3. Để tránh nguy cơ thứ ba, sự luận tội là cần thiết. Nên đây lại là lý do nữa chống lại
việc để Quốc hội bầu chọn Tổng thống. Ông coi việc bầu cử Tổng thống do dân chúng
tiến hành là giải pháp tốt nhất, do cơ quan lập pháp là giải pháp tồi tệ nhất. Ngoài hai giải
pháp này, ông không thể không tán thành một giải pháp pha trộn như Ngài Wilson đề
xuất. Nếu cách thức này không loại bỏ được những mưu mô xấu xa và sự phụ thuộc của
Tổng thống vào Quốc hội, chí ít cũng giảm bớt đáng kể những mối nguy hiểm này.

Ngài WILLIAMSON: Phản đối việc để cơ quan lập pháp tiến hành cuộc bầu chọn Tổng
thống vì điều này mở ra cơ hội can thiệp của các thế lực ngoại bang. Nhưng lý lẽ chủ yếu

chống lại việc bầu cử do dân chúng tiến hành là những bất lợi sẽ xảy ra với các bang nhỏ.
Cách giải quyết khó khăn này là mỗi cử tri sẽ được chọn ra ba ứng cử viên. Một trong số
đó có thể là công dân của tiểu bang quê nhà, còn hai người kia phải thuộc các tiểu bang
khác, có thể các bang lớn, cũng có thể là các bang bé.

Ngài G. MORRIS: Rất tán thành ý kiến này, nhưng đề nghị sửa thành một người có thể
bầu chọn hai ứng cử viên, trong đó ít nhất một người không thuộc tiểu bang của mình .

Ngài MADISON: Cho rằng điều gợi ý vừa rồi rất có giá trị. Người thứ hai được bầu có
thể là người có tư cách tốt nhất. Những vẫn có thể gặp trở ngại do có thể mỗi cử tri bầu
chọn người đồng bào của mình sẽ cố tình bầu chọn một người tầm thường nào đó của
một tiểu bang khác nhằm đảm bảo chiến thắng cho sự lựa chọn số một của mình.

Nhưng khó lòng cho rằng công dân của nhiều tiểu bang lạc quan về sự bầu chọn của
mình nên sẽ phớt lờ sự bầu chọn thứ hai. Hơn nữa, điều này có thể mang lại thuận lợi cho
các bang nhỏ, nếu qui định Tổng thống không thể được bầu chọn một số lần nào đó từ
cùng một tiểu bang.

Ngài GERRY: Cuộc bầu cử của toàn thể dân chúng là vô cùng nguy hiểm. Sự thiếu hiểu
biết của dân chúng sẽ làm cho một nhóm người nào đó vận động trên khắp toàn quốc
nhằm lôi kéo dân chúng bầu chọn một kẻ nào đó. Ông thấy rằng một xã hội như vậy chỉ
tồn tại trong trật tự của Hội Cincinnati . Họ rất đáng kính, thống nhất và có ảnh hưởng
lớn.

Thực tế, họ sẽ quyết định việc bầu chọn Tổng thống trong mọi lần bầu cử nếu quyền bầu
cử được trao cho dân chúng. Sự kính trọng của ông đối với những thành viên của hội này
không làm ông mù quáng đến mức không nhận ra những mối nguy hiểm và tính không
đúng đắn nếu trao quyền lực này vào tay những con người đó.

Ngài DICKENSON: Những tranh luận này cho thấy, những lý lẽ phản đối chủ yếu nhất l

à
đối với mô hình bầu cử do cơ quan lập pháp quốc gia, cũng như do các cơ quan lập pháp
tiểu bang và Thống đốc tiểu bang tiến hành. Ông nghiêng dần về giải pháp để dân chúng
bầu chọn, đó là cách thức tốt nhất và trong sạch nhất. Ông hiểu rằng những phản đối cách
bầu này không lớn như với những cách bầu khác. Khó khăn lớn nhất xuất phát từ sự thiên
vị của các tiểu bang đối với công dân của mình.

Nhưng có thể sự thiên vị này sẽ có hiệu quả tốt. Hãy để dân chúng của mỗi tiểu bang bầu
chọn công dân tốt nhất của mình. Dân chúng sẽ biết những cá nhân xuất sắc nhất trong
tiểu bang của họ và dân chúng của các tiểu bang khác cũng sẽ ganh đua trong việc bầu
chọn những cá nhân tốt nhất đáng để họ tự hào. Trong số 13 cá nhân được chọn lựa như
vậy, cơ quan lập pháp quốc gia hoặc những đại cử tri sẽ chọn ra Tổng thống.

Đề xuất của Ngài Pinkney rằng không ai được giữ chức Tổng thống nhiều hơn 6 năm
trong giai đoạn 12 năm bất kỳ, cũng bị Hội nghị bỏ phiếu bác bỏ.

NH: đồng ý; MA: đồng ý; CT: phản đối; NJ: phản đối; PA: phản đối; DE: phản đối; MD:
phản đối; VA: phản đối; NC: đồng ý; SC: đồng ý; GA: đồng ý; (6 bang phản đối, 5 bang
đồng ý).
Trong mọi giai đoạn thảo luận liên quan đến Tổng thống, khó khăn lớn nhất là các ý kiến
quá đa dạng. Không có mô hình nào được tất cả mọi người hài lòng.

1. Từng có đề xuất rằng cuộc bầu cử phải do toàn thể dân chúng tham gia. Nhưng lại có
lý do phản đối rằng một hành động, lẽ ra cần phải được tiến hành do những người hiểu
biết nhất về tư cách và phẩm chất của các cá nhân, lại được thực hiện bởi những người ít
hiểu biết nhất.

2. Cuộc bầu cử đó phải được cơ quan lập pháp của các tiểu bang tiến hành.

3. Do các Thống đốc tiểu bang, nhưng những mô hình này cũng bị nhiều phản đối.


4. Từng có đề xuất là Tổng thống sẽ do những đại cử tri, những người được dân chúng
lựa chọn, bầu ra. Điều này lúc đầu được mọi người đồng ý, nhưng sau những tranh luận
chi tiết lại bị bác bỏ.

5. Sau đó, Ngài Williamson đề xuất là mỗi người sẽ được chọn nhiều ứng cử viên. Điều
này cũng giống như những đề xuất khác, dù bề ngoài có vẻ hợp lý, nhưng khi xem xét kỹ
lại có những sai lầm nguy hiểm. Cuộc bầu cử phổ thông dưới bất kỳ hình thức nào, như
Ngài Gerry nhận xét, đều mang lại sự lựa chọn vào tay những người theo hội Cincinnati,
một hội có nhiều cá nhân đáng kính. Nhưng ông không bao giờ mong muốn có những
ảnh hưởng như vậy trong chính quyền.

6. Ngài Dickenson đề xuất một giải pháp khác, nhưng rất bất tiện và chính bản thân ông
cũng nghi ngờ và bác bỏ cách này. Cách này sẽ loại bỏ những người không nổi tiếng
trong tiểu bang quê nhà dù nổi tiếng trên toàn quốc.

Sau khi xem xét mọi mô hình, ông kết luận rằng việc để cơ quan lập pháp quốc gia bầu
chọn là tốt nhất. Nếu có bị phản đối thì cũng bị phản đối ít hơn những giải pháp khác.
Ông cũng tin rằng cùng lúc đó, một cuộc bầu cử thứ hai là tuyệt đối bị ngăn cấm [tức là
khi cuộc bầu cử Tổng thống diễn ra thì sẽ không thể có bất cứ cuộc bầu cử nào khác, dù
là của Thượng viện, hay Hạ viện].

Với mục đích cơ bản nhất để đảm bảo tư cách đạo đức của Tổng thống, để duy trì quyền
tự do của con người, một điểm rất then chốt là các viên chức cao cấp của nhà nước, nhất
là của nhánh hành pháp, sau một thời gian nhất định, phải quay trở về sống với những cử
tri để thấu hiểu tâm trạng, tình cảm, lợi ích và quyền lợi của họ. Ông kết luận rằng cần
quay lại đề xuất ban đầu "Tổng thống sẽ được bầu với nhiệm kỳ bảy năm và không được
tái cử".

Ngài DAVIE: Ủng hộ ý kiến này.


Bác sĩ FRANKLIN: Dường như một vài quý ngài cho rằng việc bầu cử do toàn thể dân
chúng tiến hành sẽ làm hạ thấp giá trị của chức Tổng thống, nhưng điều này đi ngược lại
các nguyên tắc cộng hòa. Trong mọi chính quyền tự do, những người cai trị chỉ là đầy tớ,
còn dân chúng mới là người chủ thật sự. Vì thế, trao cho dân chúng quyền bầu chọn Tổng
thống không phải làm hạ thấp mà nâng cao giá trị của chức vụ này.

Về đề xuất của Đại tá Mason: Hội nghị nhất trí với kết quả bỏ phiếu như sau: NH: đồng
ý; MA không quyết định. CT: phản đối; NJ: đồng ý; PA: phản đối; DE: phản đối; MD:
đồng ý; VA: đồng ý; NC: đồng ý; SC: đồng ý; GA: đồng ý;

Toàn bộ điều khoản nói về Tổng thống được sửa chữa như sau: "nhánh hành pháp quốc
gia sẽ được thiết lập, chỉ gồm một người duy nhất, được cơ quan lập pháp quốc gia lựa
chọn, với nhiệm kỳ bảy năm, không được bầu lại lần hai, có quyền thi hành mọi đạo luật
quốc gia, có quyền bổ nhiệm các viên chức không được Hiến pháp qui định, có thể bị
cách chức nếu bị luận tội vì thiếu trách nhiệm hoặc có những hành vi sai trái, được nhận
một khoản tiền không thay đổi trong suốt thời gian giữ chức vụ, từ Ngân khố Quốc gia".

Tuy nhiên, tới ngày 4, 5 và 6 tháng Chín, khi bản phác thảo Hiến pháp được làm xong và
đem ra tranh luận, sau rất nhiều đắn đo và dựa theo những điều chỉnh của các điều khoản
khác, Hội nghị lại quyết định phương pháp bầu chọn Tổng thống theo như cách Madison
đã đề xuất. Tức là bầu ra các đại cử tri và những người này mới bầu chọn Tổng thống.…


×