Tải bản đầy đủ (.pdf) (46 trang)

Kinh nghiệm quốc tế trong việc thúc đẩy quá trình tiếp nhận và chuyển giao công nghệ

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (645.83 KB, 46 trang )


Lời nói đầu

Trong xu thế toàn cầu hóa nền kinh tế thế giới, sự trao đổi, chuyển giao
công nghệ giữa các quốc gia ngày càng có chiều hướng gia tăng và trở thành một
trong những nội dung quan trọng trong mối bang giao quốc tế hiện nay. Vì vậy,
nhiều nước trên thế giới đang thực sự quan tâm phát triển thị trường khoa học và
công nghệ bên cạnh thị trường hàng hóa, thị trường lao động, thị trường tài
chính để thúc đẩy việc chuyển giao công nghệ, tiếp nhận và đổi mới công nghệ
nhằm nâng cao năng lực cạnh tranh của nền kinh tế.
Nhận biết được tầm quan trọng của việc chuyển giao công nghệ, Nhà nước
ta đã ban hành các văn bản quan trọng về chuyển giao công nghệ như
Pháp lệnh Chuyển giao công nghệ nước ngoài vào Việt Nam do Hội đồng Nhà
nước công bố ngày 10 tháng 12 năm 1988, Nghị định số 49/HĐBT ngày
04/3/1991 quy định chi tiết thi hành Pháp lệnh Chuyển giao công nghệ nước
ngoài vào Việt Nam, Thông tư số 28-TT/QLKH ngày 22/1/1994 của Bộ Khoa
học, Công nghệ và Môi trường về hướng dẫn Chuyển giao công nghệ nước ngoài
vào Việt Nam và hiện nay Bộ Khoa học và Công nghệ đang triển khai xây dựng
Dự thảo Luật Chuyển giao công nghệ để trình Chính phủ trong năm 2005 trước
khi trình Quốc Hội.
Để giúp bạn đọc có thêm thông tin về hoạt động chuyển giao công nghệ,
Trung tâm Thông tin Khoa học và Công nghệ Quốc gia biện soạn và xuất bản
Tổng luận “KINH NGHIỆM QUỐC TẾ TRONG VIỆC THÚC ĐẨY QUÁ
TRÌNH TIẾP NHẬN VÀ CHUYỂN GIAO CÔNG NGHỆ”, với các nội dung chính:
 “Những vấn đề chung về công nghệ - chuyển giao công nghệ.
 Kinh nghiệm quốc tế về tiếp nhận và chuyển giao công nghệ.
 Kinh nghiệm một số nước về thúc đẩy chuyển giao công nghệ”.

Xin trân trọng giới thiệu.



Trung tâm Thông tin KH&CN Quốc gia


1
KINH NGHIỆM QUỐC TẾ TRONG VIỆC THÚC ĐẨY QUÁ
TRÌNH TIẾP NHẬN VÀ CHUYỂN GIAO CÔNG NGHỆ

I. Những vấn đề chung về công nghệ - chuyển giao công nghệ:
 Công nghệ: Theo tiếng gốc Hy Lạp, chữ “Công nghệ - Technology” có
nghĩa là “Khoa học của sự khéo léo”. Theo UNIDO (United Nations
Industrial Development Organization-Tổ chức Phát triển Công nghiệp của
Liên hiệp quốc), “Công nghệ là việc áp dụng khoa học vào công nghiệp
bằng cách sử dụng những nghiên cứu và xử lý nó một cách có hệ thống và
có phương pháp”. Theo ESCAP (Economic and Social Commission for
Asia and Pacific-Uỷ ban Kinh tế và Xã hội châu á-Thái Bình Dương),(định
nghĩa 1) “Công nghệ là hệ thống kiến thức về quy trình và kỹ thuật chế
biến vật liệu và thông tin”. Định nghĩa thứ 2 của ESCAP, “Công nghệ bao
gồm tất cả các kỹ năng, kiến thức, thiết bị, chế tạo hoặc dịch vụ công
nghiệp, dịch vụ quản lý”. Theo Luật Khoa học và Công nghệ của nước ta,
tại Chương I, Điều 1 nêu rõ “Công nghệ là tập hợp các phương pháp, quy
trình, kỹ năng, bí quyết, công cụ, phương tiện dùng để biến đổi các nguồn
lực thành sản phẩm”.
 Công nghệ nguồn: Là công nghệ được tạo ra lần đầu từ các phát
minh, sáng chế, giải pháp hữu ích. Công nghệ nguồn ở nước nào cũng có
thể có, nhưng hiện nay phần lớn công nghệ nguồn được tạo ra từ các Tập
đoàn đa quốc gia của các nước công nghiệp phát triển như Mỹ, Pháp,
Anh
 Công nghệ thứ cấp: Là công nghệ không phải là công nghệ nguồn.
Công nghệ thứ cấp được chuyển giao lần thứ nhất, hoặc là công nghệ thứ
cấp lần thư 2, lần thứ 3 Hàn Quốc, Nhật Bản, Đài Loan đều có những

công nghệ hiện đại nhưng phần lớn đều không phải là công nghệ nguồn
nhưng được chuyển giao lần đầu từ Mỹ hoặc Anh, ví dụ điện thoại di
động SAMSUNG rất hiện đại nhưng phải sử dụng tới 40% phát minh
sáng chế của Mỹ. Như vậy, SAMSUNG không làm chủ công nghệ
nguồn. Việt Nam tiếp nhận công nghệ từ Nhật Bản, Hàn Quốc, nhưng
thực chất các công nghệ đó đi sau công nghệ nguồn ít nhất là 2 đến 3 thế
hệ. Các nước đang phát triển cũng có khả năng tạo ra được công nghệ
nguồn nhưng chưa hẳn đấy là công nghệ tiên tiến và hiện đại. Ví dụ,

2
công nghệ sản xuất kẹo dừa ở Bến Tre là công nghệ nguồn, nhưng công
nghệ này lại sử dụng các thao tác lạc hậu.
 Chuyển giao công nghệ: Tiếng gốc La Tinh chữ “Chuyển giao-Transfer” là
chữ “Transferre”, có nghĩa là “Vượt qua một ranh giới”. Chuyển giao công
nghệ có nghĩa là mang kiến thức kỹ thuật vượt qua sự giới hạn trong hay ngoài
nước từ các công ty, các trường đại học, các viện nghiên cứu, các phòng thí
nghiệp, các doanh nghiệp khoa học ươm tạo công nghệ đến những nơi có
nhu cầu tiếp nhận công nghệ. Cho đến nay, đã có nhiều định nghĩa về chuyển
giao công nghệ, xin nêu một vài định nghĩa như sau để tham khảo:
+ Chuyển giao công nghệ là sự trao đổi tri thức kỹ thuật, dữ liệu, các bản
vẽ thiết kế, các phát minh, sáng chế, các bí quyết, các thiết bị, các quy
trình sản xuất, vận hành và các lỹ năng quản lý từ một tổ chức này sang
một tổ chức khác.
+ Chuyển giao công nghệ là chuyển giao quyền sở hữu, quyền sử
dụng công nghệ.
Theo Pháp lệnh Chuyển giao công nghệ nước ngoài vào Việt Nam
được Hội đồng Nhà nước công bố ngày 10/12/1988, tại Điều 3 ghi
rõ: Những hoạt động dưới đây được coi là “chuyển giao công
nghệ:
 Chuyển giao quyền sở hữu hoặc sử dụng sáng chế, giải pháp

hữu ích hoặc các đối tượng sở hữu công nghiệp khác,
 Chuyển giao các bí quyết hoặc kiến thức kỹ thuật, chuyên môn
dưới dạng phương án công nghệ tài liệu thiết kế, công thức
thông số kỹ thuật có hoặc không kèm theo thiết bị,
 Cung cấp dịch vụ hỗ trợ và tư vấn công nghệ, kể cả đào tạo và
thông tin”.
 Chuyển giao công nghệ Quốc tế: Chuyển giao công nghệ quốc tế có
thể định nghĩa trên một phạm vi rộng là “Một hoạt động kinh tế liên
quan đến sự trao đổi - chuyển giao - tiếp nhận công nghệ được tiến
hành giữa hai doanh nghiệp khác nhau về quốc tịch”.



3
 Những yêu cầu chủ yếu của công nghệ được chuyển giao:
(1) Công nghệ phải tạo nên sự thịnh vượng, tăng cường sức mạnh kinh
tế-xã hội và chính trị,
(2) Công nghệ phải tạo ra các loại sản phẩm và dịch vụ có chất lượng
cao nhằm nâng cao năng lực cạnh trên thị trường nội địa và quốc tế,
(3) Công nghệ đòi hỏi một triết lý và thực tiễn mới về quản lý.
 Quy tắc chuyển giao công nghệ:
Chuyển giao công nghệ nhằm mục đích tăng cường phát triển sản phẩm trong
công nghiệp, hỗ trợ các nỗ lực nghiên cứu trong khu vực hàn lâm và thương mại hóa
các công nghệ được phát triển trong các viện nghiên cứu của Chính phủ.
Một quy tắc quan trọng bao trùm trong chuyển giao công nghệ là chuyển giao
công nghệ không giống nhau đối với những người khác nhau. Đối với các thành viên
thuộc Hiệp hội các nhà quản lý công nghệ của trường đại học thì chuyển giao công
nghệ là sự chuyển giao chính thức các sáng chế và các khám phá mới thu được từ hoạt
động nghiên cứu khoa học được tiến hành ở các trường đại học cho khu vực thương
mại. Đối với các phòng thí nghiệm quốc gia thì nó là một quá trình mà các kiến thức,

phương tiện hay năng lực, được phát triển nhờ nguồn tài trợ cho nghiên cứu và phát
triển (R&D) của Chính phủ, được sử dụng để đáp ứng các nhu cầu công cộng và tư
nhân. Trong công nghiệp thì đó là một cơ chế cho phép các công ty giải quyết các nhu
cầu công nghệ của mình bằng cách mua li-xăng công nghệ và kiến thức của các công
ty khác. Chuyển giao công nghệ rõ ràng không hạn chế về bản chất và chứa đựng tất
cả các thuộc tính này. Về cơ bản, nó bao hàm chuyển giao việc sử dụng sở hữu trí tuệ
từ một tổ chức này sang một tổ chức khác, thông thường bằng tiền thanh toán trả cho
việc sử dụng hay phí lixăng. Nhưng chính việc thanh toán phí chuyển giao trong mọi
giao dịch sẽ gây ra những vấn đề liên quan đến tình trạng lãi hay thua lỗ của một tổ
chức.
Dưới đây là một số quy tắc cần chú ý để có thể tăng cường lợi nhuận và giảm
thiểu thua thiệt trong các thoả thuận chuyển giao công nghệ. Những quy tắc này hoàn
toàn không phải là tất cả để đánh giá một giao dịch chuyển giao công nghệ. Chúng chỉ
nhấn mạnh một số vấn đề phức tạp cần phải cân nhắc nhằm dáp ứng được các mục tiêu
chiến lược của các tổ chức:


4
(1) Không được đánh giá sai giá trị của công nghệ: Thông thường, những người
tham gia vào một thỏa thuận chuyển giao công nghệ sẽ định giá thấp chi phí để phát
triển sản phẩm từ giai đoạn mẫu trình diễn sang sản xuất thương mại đầy đủ. Những
người mua thường sẽ trở nên quá say mê với công nghệ mà đánh giá thấp những chi
phí thực hiện như công cụ, vật tư, bao gói, gia công và bảo đảm chất lượng/kiểm tra.
Một trong những nguyên nhân lớn nhất của chuyển giao công nghệ thất bại là chi phí
quá cao trong giai đoạn chuẩn bị các chi phí sản xuất. Người mua công nghệ cần mời
các chuyên gia sản xuất có kinh nghiệm đánh giá toàn bộ những chi phí này trong giai
đoạn đánh giá. Những người sử dụng nên cộng thêm một khoản 15% phí đột xuất vào
các chi phí sản xuất ước tính cuối cùng để bù đắp những chi phí phát sinh ngoài dự
kiến.
(2) Hiểu rõ thị trường mục tiêu: Có một số người tham gia vào giao dịch chuyển

giao công nghệ sẽ mua công nghệ nhưng chưa hiểu kỹ thị trường thương mại tiềm
năng đối với công nghệ đó. Các chuyên gia khuyên rằng những người mua công nghệ
cần sớm xác định nhu cầu thị trường trong giao dịch chuyển giao công nghệ và chắc
chắc rằng sản phẩm cuối cùng có ưu thế thương mại rõ ràng so với công nghệ cạnh
tranh tiềm năng của nó. Họ cũng khuyên những người mua công nghệ sớm tham khảo
những người sử dụng sản phẩm và xem thị trường nói chung sẽ cần những gì đối với
công nghệ mới này. Thời gian cũng là một vấn đề mà người mua cần lưu ý bởi thị
trường có thể thay đổi trong giai đoạn đưa công nghệ vào sản xuất sản phẩm thương
mại.
(3) Sử dụng những người giỏi: Những người thực hiện đàm phán hợp đồng chuyển
giao công nghệ cần phải giỏi về công nghệ đó, cùng với hiểu biết kinh doanh và một
chút kiến thức luật pháp. Nếu không có những yếu tố này, nhóm kinh doanh của bạn sẽ
gặp khó khăn trong việc hoàn thành các mục tiêu đề ra. Tất cả các kiến thức của họ sẽ
được vận dụng trong các cuộc thương lượng đó.
(4) Tìm kiếm giải pháp 2 bên đều thắng: Chuyển giao công nghệ là việc đưa công
nghệ ra thị trường. Do vậy, một giải pháp 2 bên cùng thắng thường được các bên theo
đuổi bởi bên cung cấp và bên mua có các năng lực bổ sung cho nhau nhằm mục đích
sao cho một công nghệ tốt được sản xuất có hiệu quả và được thương mại có kết quả
trong một thị trường cần và muốn có công nghệ đó. Thông thường, các công ty với
năng lực giống nhau trong khi tìm hiểu các yêu cầu của nhau có thể thấy thích hợp,
nhưng trên thực tế không bên nào có thể đặt lên bàn một thứ gì mà các bên còn thiếu.

5
(5) Có nhiều lĩnh vực hợp tác: “Sáng kiến Công nghệ nanô Quốc gia” của Mỹ là một
thí dụ rất rõ làm sao nghiên cứu được Chính phủ tài trợ có thể dẫn đến sự phát triển
các ngành công nghiệp mới và cung cấp hỗ trợ nghiên cứu cơ bản tiếp theo để tăng
cường các nỗ lực phát triển của công ty. Nhiều công nghệ nanô đang được hỗ trợ bằng
chi phí R&D của Chính phủ và được phát triển trong các phòng thí nghiệm liên bang,
trong khi đối tác chuyển giao công nghệ trong công nghiệp có thể giúp thương mại hóa
chúng.

(6) Kiểm tra thị trường: Cách tốt nhất để đánh giá công nghệ là hỏi những người
tham gia thị trường về giá trị mà những lợi ích của công nghệ có thể mang lại cho họ.
Nếu nó có giá trị thì bạn có thể cố gắng tìm cơ hội bán chúng. Phần lớn các tổ chức
công nghiệp không bao giờ suy nghĩ kỹ lưỡng trong việc tiến hành nghiên cứu thị
trường về sản phẩm mới được phát triển trong công ty. Nhưng điều này cũng thường
xảy ra khi học mua công nghệ từ một tổ chức khác ngoài công ty. Người mua có thể
sai lầm khi tin rằng việc nghiên cứu thị trường đã được phía cung cấp công nghệ thực
hiện hay làm qua loa. Trong cả 2 trường hợp trên, nghiên cứu thị trường đều không có
giá trị đối với bất kỳ sản phẩm mới nào và trong mỗi hợp đồng chuyển giao công nghê,
nó cần phải được tiến hành trước khi ký kết các văn bản cuối cùng hay ít nhất cũng là
một phần căn bản của hợp đồng. Các bên chuyển giao công nghệ không nên nản lòng
vì, từ trước đến nay, chỉ có khoảng 1% đến 5% công nghệ được cấp patăng và được
thương mại hoá.
(7) Nguồn lực (vật tư và các nguồn cung ứng khác). Quy trình phân bố nguồn lực
công nghệ trong một tổ chức công nghệ là một sự sắp đặt phức tạp gồm các ưu tiên,
các thao tác vận hành hàng ngày và các thao tác vận hành then chốt. Trong quá trình
chuyển giao công nghệ, khi hợp đồng cuối cùng được ký kết và công nghệ được
chuyển giao, các nguồn lực cần phải có để hỗ trợ cho nó trong một thời hạn nhất định
có thể đảm bảo cho triển khai thành công. Nếu các vận hành tiếp theo loại bỏ các
nguồn lực khỏi công nghệ chuyển giao, thì có thể nảy sinh những khác biệt giữa chiến
lược theo kế hoạch của tổ chức và chiến lược triển khai thực tế. Các nguồn lực cần
phải được tích cực giám sát, tìm hiểu và kiểm tra hàng ngày, nếu cần.
(8) Không coi nhẹ các khía cạnh luật pháp: Công nghệ có thể được chuyển giao,
nhưng nếu bạn không được sở hữu các quyền, bạn có thể gặp rủi ro ở chỗ thực tế bạn
có thể sử dụng công nghệ đó vào kinh doanh gì? Để bảo vệ các quyền của mình, bạn
phải chắc chắn mình nhận được mọi khía cạnh của công nghệ bạn cần. Có một số
trường hợp gây tranh cãi về sáng chế thực tế của công nghệ và một số phần của công
nghệ do người khác phát triển.

6

(9) Hiểu rõ hệ thống pháp lý: Hiện có nhiều quy định pháp lý về chuyển giao công
nghệ đã được ban hành sẽ ảnh hưởng đến các trường hợp khác nhau. Những quy định
cơ bản này cần hiểu kỹ và thực hiện có thể giúp tiết kiệm thời gian và tiền bạc về sau.
(10) Sử dụng tất cả các nguồn thông tin: Chuyển giao công nghệ đang phát triển
mạnh mẽ nên có nhiều cơ quan dịch vụ được thành lập để hỗ trợ công việc này. Các
thông tin cần cho những người mua công nghệ tiềm năng cũng có thể tìm kiến trên
mạng.
 Hợp đồng quốc tế về chuyển giao công nghệ (Hợp đồng mẫu):
Những vấn đề cần thiết trong một hợp đồng:
Phần mở đầu (Hợp đồng này dựa trên sự hiểu biết sau đây giữa Bên giao
và Bên nhận: Bên giao có quyền sở hữu hoặc quyền sử dụng các đối tượng sở
hữu công nghiệp hoặc thông tin, bí quyết kỹ thuật có giá trị thương mại và có
khả năng áp dụng trong sản xuất, kinh doanh (sản phẩm). Bên giao đã tiến hành
sản xuất và bán (sản phẩm) qua (một số) năm. Bên giao có quyền và có khả
năng chuyển giao quyền sở hữu công nghiệp, bí quyết, thông tin kỹ thuật cho
Bên nhận để sản xuất, kinh doanh Bên nhận mong muốn và có khả năng tiếp
nhận và áp dụng công nghệ để sản xuất sản phẩm. Hai Bên ký kết tin tưởng vào
sự thành công của việc chuyển giao quyền sử dụng các đối tượng sở hữu công
nghiệp, bí quyết, thông tin kỹ thuật, trợ giúp kỹ thuật của Bên giao cho sự thành
công trong sản xuất và bán (sản phẩm) của Bên nhận ).
Điều 1: Các định nghĩa và giải thích (các thuật ngữ được dùng trong hợp
đồng ví dụ như “Sản phẩm”, “Hỗ trợ kỹ thuật”, “Đào tạo”, “Thông
tin công nghệ”, “Tài liệu”, “Bất khả kháng” ),
Điều 2: Phạm vi công nghệ (Bên giao đồng ý chuyển giao cho Bên nhận
công nghệ để sản xuất ra các sản phẩm được liệt kê và định rõ trong
phụ lục kèm theo, đảm bảo công suất, hiệu suất ),
Điều 3: Lãnh thổ và độc quyền (Bên nhận được độc quyền sử dụng công
nghệ để sản xuất sản phẩm trong phạm vi lãnh thổ),
Điều 4: Chuyển giao công nghệ (Bên giao đồng ý cung cấp mọi tài liệu, đào
tạo và hỗ trợ kỹ thuật cần thiết để sản xuất sản phẩm phù hợp với

các chỉ tiêu kinh tế - kỹ thuật của Bên nhận ),
Điều 5: Giá cả,
Điều 6: Điều khoản thanh toán,
Điều 7: Thuế,
Điều 8: Các tài liệu kèm theo,

7
Điều 9: Bảo đảm và bảo hành (Bên giao bảo đảm công nghệ được chuyển
giao sẽ phù hợp với việc sản xuất sản phẩm do Bên nhận yêu
cầu ),
Điều 10: Bảo vệ môi trường và ngăn ngừa các hậu quả có hại (Bên giao cam kết
thông báo đầy đủ và rõ ràng cho Bên nhận tất cả những thông tin mà Bên
giao biết về những hậu quả có thể xẩy ra đối với môi trường, môi sinh và
với người lao động do sử dụng công nghệ ),
Điều 11: Sự vi phạm quyền sở hữu công nghiệp của Bên thứ 3 (Bên giao cam
kết rằng công nghệ chuyển cho Bên nhận không vi phạm quyền sở
hữu công nghiệp của bất cứ Bên thứ 3 nào tại Việt Nam ),
Điều 12: Giữ bí mật,
Điều 13: Bất khả kháng (Nếu một trong hai Bên bị ngăn cản hay chậm trễ
trong việc thực hiện bất kỳ điều khoản nào của hợp đồng vì những
lý do bất khả kháng đã nêu rõ ở Điều 1, thì Bên đó không bị coi là
có lỗi và Bên kia sẽ không được nhận một sự bồi thường nào…),
Điều 14: Phê duyệt và có hiệu lực (Đối với hợp đồng mà pháp luật quy định
là phải phê duyệt mới có hiệu lực - Hợp đồng có hiệu lực từ khi hai
Bên ký kết và khi nhận được sự phê duyệt của Chính phủ hay các
cơ quan có thẩm quyền).
Điều 15: Thời gian, việc gia hạn và kết thúc hợp đồng (Thời gian của hợp
đồng là (số năm) năm, kể từ khi hợp đồng bắt đầu có hiệu lực.
Nếu cần gia hạn, ít nhất trước 6 tháng kết thúc hợp đồng, hai Bên
cùng trao đổi để thống nhất gia hạn thêm hợp đồng ),

Điều 16: Chuyển nhượng quyền và nghĩa vụ (Không một quyền và nghĩa vụ
nào trong hợp đồng có thể chuyển nhượng hay chuyển giao bởi một
Bên cho Bên thứ ba mà không có văn bản chấp thuận của Bên kia
và được cơ quan có thẩm quyền khê duyệt ),
Điều 17: Các thông báo,
Điều 18: Về việc không có hiệu lực từng phần (nếu có điêù khỏan nào đó
không có hiệu lực hoặc mất hiệu lực, thì các Bên có trách nhiệm
thay thế điều khoản đó bằng điều khoản mới có hiệu lực và phải đáp
ứng được mục đích ban đầu của điều khoản đã mất hiệu lực ),
Điều 19: Thỏa thuận toàn bộ và sửa đổi,
Điều 20: Ngôn ngữ (ngôn ngữ của hợp đồng và bản hợp đồng gốc ),

8
Điều 21: Luật áp dụng,
Điều 22: Giải quyết tranh chấp,
(Các Phụ lục của hợp đồng).

II. kinh nghiệm quốc tế về tiếp nhận và Chuyển giao công nghệ
2.1. Các dòng chuyển giao công nghệ quốc tế chủ yếu:
 Chuyển giao công nghệ giữa các nước công nghiệp phát triển: Một
đặc điểm chung cơ bản trong việc chuyển giao công nghệ giữa các nước
công nghiệp phát triển là cơ sở hạ tầng kỹ thuật phát triển ở đỉnh cao,
họ luôn đặt ra những yêu cầu mới, hiện đại nhất so với sự phát triển
KH&CN hiện tại. Hình thức chuyển giao công nghệ giữa các nước phát
triển chủ yếu là mua bán thiết bị công nghệ, các sản phẩm KH&CN,
các bí quyết, bằng phát minh, sáng chế.
 Chuyển giao công nghệ giữa các nước công nghiệp phát triển với
các nước đang phát triển: Đây là dòng chuyển giao công nghệ từ các
nước công nghiêp phát triển sang các nước đang phát triển (còn gọi là
quan hệ Bắc-Nam). Các nước đang phát triển tiếp nhận công nghệ từ

các nước công nghiệp phát triển chủ yếu: công nghệ, kiến thức, kỹ
năng, kỹ thuật hiện đại, kinh nghiệm quản lý Do chi phí nhập khẩu
công nghệ và kỹ thuật khá cao, ngoại tệ ở các nước đang phát triển lại
thiếu, nếu mở rộng nhập công nghệ thì sẽ gặp rất nhiều khó khăn. Bên
cạnh đó, các nước đang phát triển lại có tình trạng chung là hạ tầng cơ
sở kỹ thuật lạc hậu, đội ngũ cán bộ KH&CN và kỹ thuật viên vừa thiếu,
vừa kém về trình độ, cơ sở nghiên cứu và phát triển công nghệ với trang
thiết bị lạc hậu, không đồng bộ, nên cản trở khả năng tiếp nhận công
nghệ nhập. Mặt khác, mức độ tổng hợp giữa công nghệ nhập với điều
kiện cụ thể ở các nước đang phát triển có những khoảng cách lớn.
Người ta ước tính rằng, đến 90% các công nghệ được tạo ra ở các nước
công nghiệp phát triển để giải quyết những yêu cầu riêng của các nước
này, phần còn lại và những công nghệ đã tương đối lạc hậu mới chuyển
giao sang các nước đang phát triển. Tình trạng chung ở các nước đang
phát triển là sản xuất nông nghiệp vẫn đang chiếm vị trí chủ đạo, công
cụ lao động lạc hậu, bên cạnh đó còn phải đối mặt với những vấn đề
khó khăn trong việc chuyển giao công nghệ như:

9
- Công nghệ sẵn có để lựa chọn rất hạn chế vì bản chất độc quyền của
các bên cung cấp công nghệ,
- Thị trường giao dịch công nghệ chưa thực sự hoàn hảo, có nơi mới
hình thành ở mức độ sơ khai,
- Vị thế yếu để mặc cả giá chuyển giao công nghệ,
- Các điều kiện và thời gian chuyển giao công nghệ bị hạn chế,
- Năng lực tiếp nhận công nghệ thấp,
- Năng lực hấp thụ, nghiên cứu và phát triển công nghệ còn yếu kém,
- Sự phụ thuộc ngày càng cao vào các nước cung cấp công nghệ do tốc
độ đổi mới công nghệ quá nhanh, vòng đời công nghệ ngày càng
ngắn,

- Các nước đang phát triển thiếu những điều kiện vật chất, kỹ thuật cần
thiết để ứng dụng và triển khai công nghệ hiện đại,
- Phần lớn các công nghệ hiện đại của các nước công nghiệp phát triển
không thích hợp lắm với những điều kiện cụ thể của các nước đang
phát triển,
- Phần lớn các nước chậm phát triển, thiết chế xã hội kém năng động,
thị trường KH&CN nhỏ hẹp, không thể tạo ra được những động lực
lớn cho việc tiếp nhận, làm chủ và đổi mới công nghệ nhập.
Tóm lại, từ việc phân tích trên cho thấy, không phải bao giờ sự chuyển
giao công nghệ từ các nước công nghiệp phát triển sang các nước đang phát triển
cũng hoàn toàn thích hợp để có thể giải quyết ngay các mâu thuẫn gay gắt trong
đời sống thấp kém của các nước đang phát triển.
 Chuyển giao công nghệ giữa các nước đang phát triển: Đây là xu thế
mới gọi là quan hệ “Nam-Nam”. Loại hình chuyển giao công nghệ này
gắn liền với sự hình thành các khối kinh tế khu vực như ASEAN ở châu
á, Cộng đồng Đông Phi ở châu Phi, các nước trong Hiệp ước Andean ở
châu Mỹ La Tinh… Dòng chuyển giao công nghệ Nam-Nam bắt đầu
khởi nguồn từ sự thành công của các nước mới công nghiệp hóa như
các nước và lãnh thổ châu á-NICs (Hàn Quốc, Singapo, Đài Loan, Hồng
Công). Các nước và vùng lãnh thổ này đang là lực lượng đầu tư đáng kể
vào các nước kém phát triển ở châu á. Mục tiêu đầu tư vốn, công nghệ
của các nước NICs chủ yếu nhằm khai thác nguyên liệu thô, tận dụng
nhân công rẻ, thu hồi vốn nhanh.


10
2. 2. Nội dung chuyển giao công nghệ:
- Chuyển giao công nghệ phần cứng sản xuất, bao gồm vật liệu, máy
móc, thiết bị,
- Chuyển giao tài liệu sản xuất, bao gồm paten, các bí quyết thiết kế,

quản lý, các tài liệu kỹ thuật, các tiêu chuẩn sản xuất, các quy trình vận
hành.
- Chuyển giao tài liệu tổ chức, gồm tài liệu dùng cho quản lý như các quy
chế vận hành xí nghiệp, quản lý chất lượng sản phẩm, quản lý nhân sự,
kiểm soát tài chính,
- Chuyển giao các kỹ năng sản xuất, kinh nghiệm, kỹ năng được tích lũy
và sử dụng trong quy trình sản xuất.
2.3. Các kênh chuyển giao công nghệ:
 Chuyển giao công nghệ qua thương mại hàng hóa: Công nghệ có thể
được chuyển giao xuyên qua các đường biên giới quốc tế với rất nhiều
kênh, trong đó kênh thương mại hàng hoá được coi là một trong những
kênh rất quan trọng. Thông qua khối lượng hàng hoá xuất nhập khẩu,
ẩn chứa trong đó tiềm năng các loại hình chuyển giao công nghệ. Chỉ
tính riêng việc nhập khẩu cho ngành công nghiệp một số công nghệ
thiết bị mới đã có thể cải thiện một cách trực tiếp hiệu quả sản xuất khi
được đưa vào dây chuyền sản xuất. Như vậy, bản thân thương mại quốc
tế cũng là một hình thức trung tâm của việc chuyển giao công nghệ.
 Chuyển giao công nghệ qua đầu tư trực tiếp nước ngoài: Kênh
chuyển giao công nghệ qua đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) thông
qua các Tập đoàn đa quốc gia (MNEs). Về nguyên lý, các MNEs sẽ
chuyển giao cho các công ty con của nó ở những nước có nhu cầu tiếp
nhận công nghệ, những tri thức công nghệ mới và hữu ích cho những
doanh nghiệp bản địa. Nguyên nhân là do các công ty con có động cơ
muốn trở thành một công ty đa quốc gia nắm giữ quyền sở hữu một số
tài sản tri thức để khai thác nhiều lợi nhuận ở các doanh nghiệp nhập
công nghệ. Có nhiều quan điểm cho rằng một dạng tiếp nhận công nghệ
toàn diện nhất là FDI. Vì FDI không những mang lại công nghệ mà còn
kỹ năng quản lý, các liên kết thị trường và vốn. Vì vậy, FDI là một
kênh chính quan trọng, thông qua đó các doanh nghiệp có cơ hội vươn
lên, không những có khả năng cạnh tranh về công nghệ trên thị trường

nội địa mà còn vươn ra khu vực và thế giới.

11
 Chuyển giao công nghệ thông qua bằng sáng chế: Kênh quan trọng
thứ ba là cấp giấy phép sáng chế công nghệ, việc này vừa có thể được
thực hiện trong các doanh nghiệp, giữa các liên doanh hoặc giữa các
doanh nghiệp không có mối liên hệ. Bằng sáng chế (Paten) thể hiện
một cách điển hình việc mua bản quyền sản xuất hoặc phân phối, thông
tin kỹ thuật cơ bản và bí quyết. Có sự khác biệt quan trọng giữa chuyển
giao công nghệ trong doanh nghiệp và cấp bằng sáng chế. ở trường hợp
đầu tiên, MNEs giữ lại việc kiểm soát độc quyền sở hữu trí tuệ và bí
quyết, trong khi ở trường hợp thứ hai việc tiếp cận những tài sản này
phải dành cho người được cấp bằng sáng chế. Vì vậy, bằng sáng chế,
các bí mật thương mại, bản quyền và thương hiệu có thể là những tiện
ích của việc chuyển giao tri thức. Do hợp đồng cấp bằng sáng chế đạt
được thông qua đàm phán giữa người bán và người mua nên việc
chuyển giao mang tính tự nguyện. Tuy nhiên, các Chính phủ có thể ban
hành những mệnh lệnh bắt buộc trao quyền sử dụng cho các doanh
nghiệp bản địa, trong trường hợp này chuyển giao công nghệ mang tính
cưỡng ép. Rõ ràng rằng các bằng sáng chế nếu bị cưỡng ép thì không
thể thành công trong việc thu được những bí quyết đích thực.
 Chuyển giao công nghệ dưới hình thức liên doanh: Cấp bằng sáng
chế và FDI có mối quan hệ gắn bó chặt chẽ với việc thành lập các liên
doanh. Đó là các thỏa thuận hợp tác giữa hai hoặc nhiều hơn hai doanh
nghiệp, với mỗi doanh nghiệp cung cấp một số lợi thế làm giảm chi phí
của việc hoạt động chung. Trong trường hợp này, các doanh nghiệp
quốc tế có thể cung cấp những thông tin sản xuất tiên tiến hơn về mặt
công nghệ thông qua việc cấp bằng sáng chế, trong khi các đối tác địa
phương cung cấp các mạng lưới phân phối, thông tin về thị trường lao
động, các kỹ năng quản lý đặc biệt hoặc một số những lợi thế mang

tính địa phương khác. Một số sự dàn xếp đạt được thông qua chia sẻ
bất cứ lợi nhuận hay rủi ro nào của liên doanh.
 Chuyển giao công nghệ qua con đường hợp đồng sản xuất/ chế tạo:
Do lợi thế nguyên vật liệu tại chổ, giá nhân công thấp, phương tiện
giao thông thuận lợi và do lợi nhuận giữa các bên, Bên A(là bên có vốn
và công nghệ) ký hợp đồng kinh tế với Bên B để gia công, chế tạo
từng nguyên công, từng chi tiết, hoặc lắp ráp từng cụm thiết bị….Bên
B dần dần tích lũy được các công nghệ mà Bên A hợp tác sản xuất. Đây

12
là loại hình chuyển giao công nghệ cũng khá phổ biến đối với các nước
đang phát triển hiện nay vì những công nghệ mà Bên B tiếp nhận được
rất cụ thể và dễ làm chủ vì đã qua sản xuất, chế tạo”thuê” cho Bên A.
 Chuyển giao công nghệ qua Mạng INTERNET/INTRANET: Đây là
loại hình chuyển giao công nghệ đang được phổ biến, nhất là các nước
có cơ sở hạ tầng kỹ thuật, công nghệ thông tin và viễn thông phát triển.
Việc giao dịch qua mạng như là một “Thị trường trung gian” để kết nối
giữa người bán và người mua công nghệ. Người có nhu cầu công nghệ
có thể tiếp cận được trực tiếp với nhà sản xuất, mà không cần thông
qua môi giới, tư vấn. “Thị trường trung gian” này có nhiều ưu thế là
không tốn kém kinh phí giao dịch, tiếp cận được thông tin tức thời giữa
người cung cấp và người có nhu cầu công nghệ. Hiện nay, người ta
đang tổ chức “Chợ ảo công nghệ” trên mạng để tiện giao dịch, lựa
chọn công nghệ một cách không giới hạn.
 Chuyển giao công nghệ thông qua luân chuyển nhân sự xuyên biên
giới: Kênh quan trọng thứ năm của chuyển giao công nghệ là luân
chuyển nhân sự quản lý và kỹ thuật xuyên biên giới. Trên thực tế, rất
nhiều công nghệ không thể được chuyển giao đầy đủ hay hiệu quả mà
không có các dịch vụ hỗ trợ và bí quyết của các kỹ sư và những nhà kỹ
thuật. Một lợi thế quan trọng của MNEs là khả năng luân chuyển những

người lao động có kỹ năng như vậy trong các công ty con khi cần thiết.
Thị trường luân chuyển tạm thời những công nhân có kỹ năng giữa các
doanh nghiệp có thể bị hạn chế và kém linh hoạt hơn do làm tăng chi
phí của các hoạt động chuyển giao công nghệ như vậy. Cần lưu ý rằng,
FDI, cấp bằng sáng chế, liên doanh và luân chuyển nhân sự là những
quy trình có liên quan, phụ thuộc lẫn nhau.
 Chuyển giao công nghệ qua thị trường trung gian: Có nhiều luồng
chuyển giao công nghệ khác nhau đã và đang có xu hướng tăng mạnh
trong những năm gần đây, đó là xuất khẩu hàng hóa, hàng hóa chuyên
sâu về lao động có kỹ năng và hàng hóa công nghệ cao từ các nền kinh
tế của các nước OECD (Tổ chức Hợp tác và Phát triển Kinh tế) có thu
nhập cao tới tất cả các nước được phân theo nhóm mức độ thu nhập
thấp hơn (được Ngân hàng Thế giới phân nhóm). Các nước có thu nhập
bậc trung trở lên làm cho thị trường xuất khẩu công nghệ từ các nước
OECD tăng lên nhanh chóng. Qua nghiên cứu cho thấy việc cấp bằng
sáng chế và các dạng mậu dịch về công nghệ khác được xác định bằng
các luồng thu nhập tiền bản quyền phần lớn thuộc về các nước OECD.

13
Các nước có thu nhập trung bình trở lên, chủ yếu là các nền kinh tế
đang phát triển đang trở thành những thành viên mới quan trọng của thị
trường công nghệ từ những năm đầu thập kỷ 80 và những nước này vẫn
chiếm ít hơn 3% tổng xuất khẩu của OECD. Trong rất nhiều kênh
chuyển giao công nghệ khác nhau, các nước có mức thu nhập trung
bình và kém hơn chiếm phần lớn ở các luồng FDI chính thống của
OECD ví dụ như Trung Quốc trong việc thu hút đầu tư. Thực vậy, đối
với các nước này, phần đóng góp FDI tăng nhanh hơn nhiều so với
thương mại công nghệ hoặc mậu dịch các hàng hóa chuyên về công
nghệ. Tình trạng này cũng diễn ra ở những nước có thu nhập thấp, FDI
tăng nhanh nhất từ những năm 1970-2003, mặc dù sự đóng góp của các

hình thức thương mại chuyên về công nghệ và chuyên vê kỹ thuật cũng
như FDI lại giảm. Sự đóng góp của Châu Phi cận Sahara ở tất cả các
luồng công nghệ không chính thống của các nền kinh tế OECD đã giảm
trong giai đoạn này. Từ đó, có thể dễ dàng hiểu được những mối quan
ngại về sự phân hóa trong cách tiếp cận chuyển giao công nghệ giữa
các nước có thu nhập trung bình và những nước kém phát triển.
 Các kênh chuyển giao công nghệ phi thị trường: Ngoài các kênh thị
trường còn có các kênh chuyển giao công nghệ phi thị trường. Có lẽ
quan trọng nhất là phương pháp mô phỏng, đó là phương pháp mà một
doanh nghiệp đối thủ học được các bí mật về thiết kế hoặc công nghệ
của sản phẩm hoặc công thức của doanh nghiệp khác. Phương pháp mô
phỏng có thể diễn ra thông qua việc xem xét kỹ sản phẩm, kỹ thuật, phá
mã phần mềm… Phương pháp mô phỏng có hợp pháp hay không phụ
thuộc vào phạm vi của việc bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ và Luật Cạnh
tranh không công bằng. Vì mô phỏng không phải đền bù cho người sở
hữu công nghệ, nên coi nó là một hình thức “Học sao chép”, điều này
lại hấp dẫn đối với các nước đang phát triển. Tuy nhiên, phương pháp
mô phỏng rất tốn chi phí và có thể làm cho năng lực sáng tạo bị chệch
hướng.
 Chuyển giao công nghệ qua việc rời bỏ công ty của người lao động:
Một hình thức chuyển giao công nghệ nữa, đó là những nhân sự về
quản lý và kỹ thuật, những người mang tri thức và công nghệ của một
doanh nghiệp của mình rồi rời bỏ doanh nghiệp này và gia nhập hoặc
thành lập một doanh nghiệp đối thủ trên cơ sở những tri thức và công
nghệ mà họ đã tích luỹ được. Đây là loại hình chuyển giao công nghệ

14
mà không phải đền bù một cách chính thức cho người sở hữu công
nghệ và phạm vi của hoạt động này phụ thuộc vào cách giải quyết theo
luật pháp về sự luân chuyển lao động.

 Chuyển giao công nghệ trên cơ sở nghiên cứu tiếp thu những dữ
liệu trên các bằng sáng chế và dữ liệu thử nghiệm: Một phương pháp
nữa để tiếp thu được công nghệ mà không phải đền bù là nghiên cứu để
tiếp thu những thông tin có sẵn về những công nghệ. Đó là những dữ
liệu đã được mô tả về các ứng dụng của các bằng sáng chế, cả những
ứng dụng được đăng ký ở một nước và được đăng ký ở nước ngoài, đều
có sẵn cho mục đích này. Về nguyên tắc, các doanh nghiệp đối thủ có
thể nghiên cứu những ứng dụng này, học hỏi những công nghệ cơ bản,
triển khai các sản phẩm và phương pháp cạnh tranh mà không vi phạm
đến quyền lợi của những người nộp đơn đăng ký bản quyền đầu tiên. Vì
vậy, bằng sáng chế vừa là một nguồn chuyển giao công nghệ trực tiếp,
thông qua FDI và cấp bằng sáng chế, lại vừa là hình thức không trực
tiếp thông qua việc nghiên cứu. Tuy nhiên, vẫn có sự không thống nhất
là liệu những thông tin công khai về các bản mô tả sáng chế như vậy có
thực sự cung cấp đầy đủ thông tin để các chuyên gia, các kỹ sư của
doanh nghiệp đối thủ có thể nắm bắt được công nghệ một cách chính
xác không? Một nguồn thông tin quan trọng nữa là những dữ liệu thử
nghiệm công nghệ mật của các nhà sáng chế. Có thể sau một giai đoạn
độc quyền về các công nghệ để thưởng cho các nhà sáng chế, các cơ
quan của các Chính phủ có thể lựa chọn để công bố những dữ liệu như
vậy với các doanh nghiệp đối thủ nội địa để tránh những chi phí nghiên
cứu trùng lặp và thúc đẩy sự cạnh tranh giữa các doanh nghiệp trong
cùng một lĩnh vực. Đây là cơ hội để các nhà nghiên cứu, các kỷ sư của
các doanh nghiệp đối thủ nghiên cứu để tạo ra những công nghệ mới
cho riêng mình.
 Chuyển giao công nghệ thông qua di cư tạm thời: Hình thức cuối
cùng, phần lớn công nghệ dường như được chuyển giao thông qua việc
di cư tạm thời của các sinh viên, các nhà khoa học, các nhà kỹ thuật-
quản lý tới các trường đại học, phòng thí nghiệm và các hội nghị khoa
học có vị trí ở những nước phát triển và đang phát triển. Đây là loại

hình chuyên giao công nghệ đang diễn ra ở nhiều nước trên thế giới. Vì
vậy, các nước đang phát triển nên tận dụng loại hình thức chuyển giao

15
công nghệ này mà không tốn kém về đào tạo, bằng cách khuyến khích
các sinh viên sau khi tốt nghiệp, các nhà khoa học đang làm việc ở
nước ngoài quay trở lại quê nhà gánh vác việc phát triển kinh doanh,
giáo dục, nghiên cứu phục vụ đất nước.

III. kinh nghiệm một số nước về thúc đẩy chuyển giao công nghệ
3.1. Kinh nghiệm chuyển giao công nghệ ở Trung Quốc:
Bốn công nghệ nổi tiếng ở Trung Quốc là 4 phát minh lớn ở thời đại cổ,
đó là thuốc nổ, la bàn, công nghệ chế tạo giấy và công nghệ in. Bốn công nghệ
này là bằng chứng thể hiện năng lực sáng tạo công nghệ của người Trung Quốc
đã có từ lâu. Hơn một thế kỷ trước, từ các sự kiện như phá hủy Vườn Viên
Minh, cuộc tiến công Hổ Môn Trại, người Trung Quốc đã bắt đầu ý thức được
sự chậm tiến của nước mình, một bộ phận quan chức nhà Thanh đã tiến hành
vận động hiện đại hóa để bảo vệ quyền lực chính quyền chuyên chế phong
kiến. Người ta gọi phong trào này là “Phong trào Dương Vụ”. Tư tưởng chủ
đạo của phong trào này là “Sự di trưởng kỷ dĩ chế di” của “Ngụy Nguyên”
(Học hỏi những công nghệ tiên tiến của đối phương để chế áp đối phương),
những quan lại phái Dương Vụ đã có tư tưởng nỗ lực tiếp thu công nghệ mới.
So với Minh Trị Duy Tân của Nhật Bản, phong trào Dương Vụ của Trung
Quốc bị thất bại, nên đã rơi vào nội chiến, bất ổn định trong vòng 60 năm.
Đến năm 1949, cục diện chính trị ở Trung Quốc bước vào thời kỳ mới -
Nhà nước CHND Trung Hoa ra đời, Đảng Cộng sản Trung Quốc nắm quyền
lãnh đạo. Vào thời điểm này, Chính phủ Trung Quốc kế thừa khoảng 40 cơ
quan nghiên cứu với 50.000 người tham gia nghiên cứu, trong đó chỉ có khoảng
600 người là nghiên cứu chuyên môn và nghiên cứu phát triển công nghệ. Thập
kỷ 50 (của thế kỷ 20), kinh tế Trung Quốc vẫn gặp rất nhiều khó khăn, nhưng

Chính phủ Trung Quốc vẫn ưu tiên kinh phí cho hoạt động KH&CN. Đến năm
1960, chi phí cho nghiên cứu khoa học toàn quốc đã tăng lên 60 lần so với năm
1952. Nửa đầu thập kỷ 60, khi trên thế giới đang tiến hành cuộc cách mạng
công nghệ, thì ở Trung Quốc bắt đầu “Cuộc cách mạng Văn hóa”. Cuộc cách
mạng này đã làm cho Trung Quốc phải chịu tổn thất lớn kể từ khi thành lập
nước, cũng như mất cơ hội theo kịp trình độ các nước đang phát triển. Nhận
thức được tầm quan trọng của công nghệ trong việc chấn hưng đất nước, các

16
thế hệ lãnh đạo của Nhà nước Trung Hoa đã có những sách lược rất mạnh mẽ
trong việc nhập khẩu công nghệ, làm chủ công nghệ và sáng tạo công nghệ để
đưa đất nước Trung Quốc phát triển như ngày nay.

Con đường du nhập công nghệ của Trung Quốc
Nhiệm vụ chủ yếu sau khi nước CHND Trung Hoa ra đời là xây dựng một
hệ thống công nghiệp. Năm 1952, Trung Quốc thực hiện kế hoạch 5 năm lần
thứ nhất để phát triển kinh tế và nhập khẩu thiết bị, công nghệ của Liên Xô cũ
với quy mô lớn, đó cũng là nhiệm vụ trung tâm của kế hoạch này. Trung Quốc
đã ưu tiên phát triển công nghiệp nặng, xây dựng công nghệ công nghiệp bước
đầu. Kết quả là đã dẫn đến sự “bùng nổ” về nhập khẩu công nghệ lần thứ nhất
trong thập kỷ 50.
Từ năm 1950 đến 1959, chỉ có 150 quy trình công nghệ viện trợ từ Liên
Xô cũ (thường nói là 156 quy trình) nhưng trên thực tế chỉ có 150 quy trình
được tiến hành), bao gồm từ 400-500 hạng mục công nghệ, chi phí khoảng 2,7
tỷ USD. Tất cả những khoản mục công nghệ đó đều rất quan trọng. Những
công nghệ trọng điểm được đưa vào là động lực, cơ khí và đồ dùng cho quân
sự. Viện trợ công nghệ của nội bộ các nước xã hội chủ nghĩa là đường dây
nhập khẩu công nghệ quan trọng nhất của Trung Quốc vào thập kỷ 50. Thời đó
các nước Tây Âu thực hiện chính sách cấm xuất nhập khẩu đối với Trung Quốc
cho nên chỉ có thể nhập khẩu công nghệ từ Liên Xô cũ và các nước xã hội chủ

nghĩa Đông Âu.
Những công nghệ được đưa vào là những công cụ quan trọng phục vụ sản
xuất, không chỉ trực tiếp tăng cường sức mạnh công nghiệp của Trung Quốc mà
còn là nền tảng để phát triển công nghệ. Trên cơ sở nhập khẩu những công
nghệ này, ở một trình độ nhất định Trung Quốc đã thành công trong việc nâng
cao năng lực công nghệ, đó là cơ sở quan trọng chủ đạo để tạo ra nền tảng công
nghiệp hóa sau này.



17
Bảng 1. Nhập khẩu thiết bị công nghệ của Trung Quốc những năm 50
(Đơn vị: Số hợp đồng)
Nguồn du
nhập
Loại thiết
bị
Số lượng
du nhập
Số lượng
đưa vào
sử dụng
Hợp đồng
hủy bỏ
Tự triển
khai
Liên Xô

Thiết bị
sơ cấp

304
149
89
66
Quy trình
đơn lẻ
64
25
35

Các nước
Đông Âu
Thiết bị
sơ cấp
108



Máy móc
đơn lẻ
82



Nguồn: “Đánh giá 40 năm đưa kỹ thuật mới vào Trung Quốc” - “Thế giới
quản lý”, số 6/1991.
Vào những năm 60, quan hệ Liên Xô cũ và Trung Quốc trở nên xấu đi,
Liên Xô cũ ngừng cung cấp thiết bị công nghệ cho Trung Quốc. Vì thế chiến
lược của Trung Quốc buộc phải thay đổi, từ chỗ học hỏi Liên Xô sang tự lực
phát triển. Trung Quốc tổ chức lại và chuyên môn hóa năng lực KH&CN trong

nước, tự mình giải quyết các vấn đề khó khăn. Vì vậy, bước đầu Trung Quốc
đã đạt thành quả to lớn trong lĩnh vực mũi nhọn quốc phòng và công nghiệp,
như đã thực hiện được “Nhất tinh, nhì đạn” nghĩa là bom nguyên tử, thủy lôi và
vệ tinh vũ trụ. Từ năm 1963, Trung Quốc đã nhập khẩu thiết bị công nghệ từ
Nhật Bản và các nước Tây Âu. Những công nghệ trọng điểm được đưa vào là
công nghệ luyện kim, hóa dầu, công nghiệp hóa học, dệt, cơ khí. Có 84 hạng
mục công nghệ được đưa vào trong giai đoạn này, với kim ngạch 300 triệu
USD. Quy mô không lớn như lần trước nhưng những hạng mục được nhập khẩu
là những thiết bị, công nghệ tiên tiến, đóng vai trò quan trọng đối với việc
nâng cao năng lực sản xuất và tích lũy công nghệ của Trung Quốc vào thời
điểm đó. Giai đoạn này, Trung Quốc xúc tiến tích lũy công nghệ mô phỏng,
thành công trong sản xuất một phần thiết bị, công nghệ mũi nhọn. Do ảnh
hưởng của cuộc Cách mạng Văn hóa năm 1966, Trung Quốc đã ngừng nhập
khẩu công nghệ thời kỳ này. Cuộc Cách mạng Văn hóa đã tác động mạnh đến

18
việc nhập khẩu công nghệ, trong danh mục được nhập trước đây, nhiều hạng
mục phá sản. Từ 1966 đến 1972, Trung Quốc bị cô lập hoàn toàn khỏi dòng
chảy phát triển công nghệ của thế giới, việc nhập khẩu công nghệ mới cũng rơi
vào tình trạng ngừng trệ. Sau năm 1972, Trung Quốc được thừa nhận tham gia
vào tổ chức của Liên Hiệp Quốc, quan hệ Trung Quốc với Mỹ, Nhật Bản, Tây
Âu được cải thiện. Chính phủ Trung Quốc đầu tư 4,3 tỷ USD để nhập khẩu
thiết bị, công nghệ mới. Như vậy, cuộc du nhập công nghệ lần thứ hai đã bắt
đầu. Thời kỳ này có thể chia làm 2 giai đoạn như sau:
Giai đoạn thứ nhất (1973-1977), là giai đoạn nhập khẩu thiết bị.
Giai đoạn thứ hai, (1978-1979) được gọi “Dương Mao Tiến” nghĩa là đưa
vào áp dụng nhanh những công nghệ của nước ngoài. Những công nghệ được
đưa vào trong giai đoạn thứ nhất tập trung vào 26 loại thiết bị cỡ lớn, với tổng
số chi phí là 3,5 tỷ USD, cụ thể gồm thiết bị cắt kim loại, 13 tổ hợp thiết bị
phân bón hóa học cỡ lớn, 4 tổ hợp thiết bị tơ sợi hóa học, 3 tổ hợp thiết bị hóa

dầu, thiết bị phát điện 2,3 triệu kW, 43 tổ hợp thiết bị máy khai thác than tổng
hợp.
Bảng 2 dưới đây, cho chúng ta thấy rằng quy mô của các danh mục được
Trung Quốc nhập khẩu trong thời kỳ này chủ yếu về số lượng, phương thức,
chủng loại.












19
Bảng 2. Số lượng nhập khẩu công nghệ mới của Trung Quốc
(Số lượng hợp đồng, đơn vị kim ngạch: 100 triệu USD)
Năm
Thiết bị nhà máy
Công nghệ
quan trọng
Giấy phép công
nghệ
Tư vấn
Dịch vụ công
nghệ
Sản xuất

cộng đồng
Phần khác
Tổng
cộng
Số
hợp
đồng
Kim
ngạch
Số
hợp
đồng
Kim
ngạch
Số
hợp
đồng
Kim
ngạch
Số
hợp
đồng
Kim
ngạch
Số
hợp
đồng
Kim
ngạc
h

Số
hợp
đồn
g
Kim
ngạc
h
Số
hợp
đồn
g
Kim
ngạc
h
Kim
ngạch
1981
11
0,51
9
0,09
37
0,45
3
0,01
4
0,03
5
0,04
4

0,03
1,16
1982
29
2,26
17
0,20
34
0,28
2
0,01
3
0,78
4
0,09
3
0,01
3,63
1983
66
2,14
34
0,32
85
1,12
13
0,08
13
1,83
5

1,10
3
0,04
5,63
1984
76
3,83
52
1,97
138
1,85
11
0,07
33
1,27
21
0,52
1
-
9,51
1985
236
20,98
178
3,37
314
2,24
22
0,09
32

0,13
38
4,97
6
0,03
31,99
1986
195
32,98
126
2,23
306
4,20
31
0,13
46
2,36
34
1,36
10
1,57
44,83
1987
184
19,64
80
1,30
235
3,50
24

0,10
30
0,16
25
5,10
3
-
29,80
1988
137
28,65
71
1,54
169
4,77
19
0,28
27
0,14
10
0,10
4
-
35,48
1989
159
25,55
31
1,60
96

1,48
14
0,06
13
0,38
11
0,07
4
0,08
29,22
1990
71
3,95
32
1,03
100
2,26
9
0,05
5
0,03
12
5,38
3
0,04
12,74
Tổng
cộng
1.164
140,49

630
13,65
1.514
22,33
148
0,88
206
7,11
165
17,73
41
1,80
203,99
Nhờ nhập khẩu những công nghệ mới trong thời kỳ này nên đã cải thiện
được tình hình sản xuất cơ bản vốn đã lạc hâu, xúc tiến phát triển một phần quan
trọng các ngành sản xuất mới, kinh tế được phát triển nên mức sống của nhân dân
cũng được nâng cao. Tuy vậy, do sự thất bại và yếu kém trong công tác quản lý vĩ
mô, nên đã xuất hiện một chuỗi các nguy cơ: thứ nhất, là nhập khẩu trùng lặp.
Trọng điểm của nhập khẩu là thiết bị công nghệ, thế nhưng số lượng thiết bị công
nghệ này lại bị hạn chế do chưa sử dụng được hết công suất. Thứ hai, là cơ cấu
nhập khẩu bất hợp lý. Thứ ba, công nghệ được đưa vào không thống nhất, không
đồng bộ với nghiên cứu khoa học. Thứ tư, chưa giải quyết được vấn đề điều chỉnh

20
cơ cấu hợp lý trong nội bộ các doanh nghiệp, các công ty nên việc tiếp thu, làm
chủ công nghệ nhập còn hạn chế nên chi phí sản xuất cao.
Bước vào thập kỷ 90, Trung Quốc đầu tư ngoại tệ trực tiếp tăng nhanh,
nên có nhiều thuận lợi trong việc nhập khẩu công nghệ quan trọng. Cho đến
nay, hình thái du nhập công nghệ của Trung Quốc đã chuyển sang một hình
thức mới, những công ty lớn buôn bán công nghệ trên thế giới như AT&T,

MOTOROLA, Matsushita… đều đã thành lập những căn cứ và các cơ sở R&D
tại Trung Quốc và các công ty này có khả năng đáp ứng nhu cầu công nghệ của
nước này.
Nhờ những chính sách hợp lý về nhập khẩu công nghệ, năng lực làm chủ
công nghệ nhập và truyền thống sáng tạo, tự cường của người Trung Quốc nên
ngày nay Trung Quốc đã xuất khẩu công nghệ và địa bàn xuất khẩu mới chỉ tập
trung vào các nước đang phát triển. Kim ngạch xuất khẩu công nghệ của Trung
Quốc tăng rất nhanh: Năm 1989 là 880 triệu USD, năm 1990 là 990 triệu USD,
năm 1991 là 1.280 triệu USD, năm 1993 là 2,170 tỷ USD, năm 1995 là 1,510 tỷ
USD, chỉ tính riêng 6 tháng đầu năm 2003 tổng giá trị hợp đồng xuất khẩu của
Trung Quốc đã đạt 2,54 tỷ USD. Có thể khẳng định rằng việc du nhập công
nghệ từ nước ngoài đã tạo ra sự phát triển nghiên cứu và nâng cao trình độ
công nghệ sản xuất của Trung Quốc.
Những bài học và kinh nghiệm rút ra từ việc tích lũy công nghệ của
Trung Quốc:
Nhìn lại quá trình tích lũy công nghệ của Trung Quốc trong hơn 40 năm,
có thể tổng kết những kinh nghiệm sau đây:
 Chiến lược Phát triển KH&CN Quốc gia đúng đắn, từ khi còn tương
đối sớm, Trung Quốc đã lập Kế hoạch tổng hợp cấp quốc gia, coi đó là
chiến lược triển khai công nghệ dài hạn trong KH&CN trên phạm vi
toàn quốc. Khuynh hướng này ít nhìn thấy trong các nước tiên tiến và
các nước phát triển khác. Trong hơn 40 năm qua, Trung Quốc đã xây
dựng các kế hoạch phát triển KH&CN dài hạn ở quy mô lớn và vừa.
Lần thứ nhất diễn ra vào năm 1956 và lần gần đây là Kế hoạch “Mạng
lưới Phát triển KH&CN Trung và Dài hạn Quốc gia” tiến hành vào
năm 1992. Những kế hoạch này đóng góp vào quá trình thúc đẩy phát
triển công nghệ công nghiệp của Trung Quốc.Theo “Cương lĩnh triển
khai KH&CN Trung và Dài hạn Quốc gia” thì Trung Quốc sẽ “Triển
khai những công nghệ tối tân, những ngành nghề có liên quan, tăng


21
cường nghiên cứu cơ bản nhằm hướng vào xây dựng kinh tế”. Trung
Quốc đã xây dựng “Kế hoạch KH&CN Quốc gia” quan trọng để xúc
tiến tích lũy công nghệ. Những kế hoạch chủ yếu là “Kế hoạch phổ
cập trọng điểm những thành tựu công nghệ quốc gia”, “Kế hoạch xây
dựng Trung tâm Nghiên cứu Công nghệ Quốc gia”, “Kế hoạch phục
hồi kinh tế nông nghiệp mà trung tâm là KH&CN, nỗ lực tiến tới hiện
đại hóa, “Kế hoạch Hoả tinh” (thực thi vào tháng 8/1988, trung tâm là
thương phẩm hóa những thành tựu kỹ thuật cao, công nghiệp hóa
những công nghệ cao và quốc tế hóa công nghiệp có công nghệ cao),
“Kế hoạch xây dựng Phòng thí nghiệm trọng điểm Quốc gia, tăng
cường nghiên cứu cơ sở”, “Kế hoạch xây dựng Quỹ khoa học Tự nhiên
Quốc gia”… Tất cả những kế hoạch này đều lần lượt được tiến hành.
 Nhờ tập trung sức lực nên đã giải quyết được những vấn đề khó
khăn về công nghệ do thực tiễn đặt ra. Chính phủ Trung Quốc tập
trung năng lực tối ưu của quốc gia, tập trung vốn lớn hướng vào tích
lũy công nghệ, giải quyết những vấn đề công nghệ thiết yếu trong
quốc phòng, phát triển xã hội và phát triển một phần nền kinh tế quốc
dân, thúc đẩy tích lũy công nghệ. Nhờ tập trung vào các nguồn lực
quốc gia như vậy nên từ cuối thập kỷ 50 đến đầu thập kỷ 60, Trung
Quốc đã tiếp cận được với những máy phát điện cỡ lớn, công nghệ chế
tạo bom nguyên tử, bom H, vệ tinh, tên lửa. Những thành quả này là
kết quả của sự đầu tư một cách tập trung của Nhà nước vào hoạt động
nghiên cứu và phát triển công nghệ.
 Tinh thần sáng tạo và phát triển năng lực tự cường, việc tích lũy
công nghệ của Trung Quốc đã bắt đầu trên cơ sở tinh thần độc lập tự
chủ. Điểm xuất phát của kỹ thuật công nghiệp Trung Quốc bắt đầu từ
sự hợp tác giữa Trung Quốc và Liên Xô cũ. Tuy vậy, ngay từ khi bắt
đầu, nguyên tắc tự lực cánh sinh đã ăn sâu vào người dân Trung Quốc.
Do sự khác biệt về tư tưởng mà Trung Quốc và Liên Xô cũ đã có sự

đối lập nhau và khi Trung Quốc thực hiện bế quan tỏa cảng thì tinh
thần độc lập tự chủ là phương thức phát triển công nghệ duy nhất.
Trong bối cảnh đó, quá trình tích lũy công nghệ của Trung Quốc
không những không bị gián đoạn, mà còn đạt được những thành quả
nhất định. Trong tình hình thiếu công nghệ, thiếu vốn, thiếu tài

22
nguyên trong giai đoạn đầu của quá trình công nghiệp hóa, nhưng cái
mà Trung Quốc không thể thiếu duy nhất là có đội ngũ cán bộ đầy
nhiệt huyết, có kỹ luật và sáng tạo. Chính phủ Trung Quốc đã có nhiều
nổ lực góp sức vào việc nâng cao tinh thần khai phá, ý chí lao động
của tập thể cán bộ. Trong một chừng mực nhất định, Trung Quốc đã
thực hiện được sự liên kết sáng tạo công nghệ dựa vào người lao động
và R&D dựa vào những nhà kỹ thuật có trình độ.
 Sự can thiệp của chính trị vào công nghệ, trong hơn 40 năm qua, ảnh
hưởng của đường lối chính trị đối với KH&CN rất lớn, cụ thể là “Cuộc
Cách mạng Văn hóa” và “Phái cánh hữu”. Những phong trào chính trị
này gây ra những thiệt hại đối với tích lũy công nghệ của Trung Quốc.
 Sự tăng cường công nghệ công nghiệp quân sự có ý nghĩa to lớn đối
với việc duy trì vị thế của quốc gia. Trong chiến lược phát triển công
nghệ nửa đầu những năm 80, sự phát triển công nghệ quân sự là vấn
đề quan trọng nhất, nên Trung Quốc đã coi nhẹ công nghệ dân sinh và
công nghệ thích hợp… Vì thế đã cản trở việc nâng cao trình độ, sức
mạnh công nghiệp quốc gia. Việc theo đuổi công nghệ quân sự đã lãng
phí rất nhiều tài nguyên, ảnh hưởng không nhỏ đến sự phát triển kinh
tế của Trung Quốc.
 Sự tách rời giữa thể chế KH&CN và sản xuất, dưới tác động của cơ
chế kinh tế kế hoạch hoá trong một thời gian dài, nhiệm vụ của các
doanh nghiệp là tập trung vào sản xuất, còn các cơ quan nghiên cứu
vẫn tiến hành nghiên cứu nhưng lại không tiếp xúc với thế giới bên

ngoài. Sợi dây liên lạc duy nhất giữa doanh nghiệp và cơ quan nghiên
cứu là các cơ quan chức năng của Chính phủ. Vấn đề tồn tại lớn nhất
của Trung Quốc là do thiếu điều chỉnh sự giao lưu và thiếu năng lực tổ
chức của các cơ quan Chính phủ nên việc chuyển những thành quả
công nghệ vào sản xuất là vấn đề rất khó khăn, nên cả các cơ quan
nghiên cứu và các doanh nghiệp đều bị thiệt hại. Do các doanh nghiệp
không thể đưa những công nghệ tiên tiến vào phục vụ sản xuất nên họ
không lưu tâm đến sự triển khai công nghệ và phát triển sản phẩm
mới. Sự tách rời giữa cơ quan nghiên cứu và các doanh nghiệp sản
xuất đã giảm thiểu nhu cầu mở rộng công nghệ trong khu vực sản
xuất. Hơn nữa, thông tin từ người tiêu dùng thiếu tuyệt đối, cho nên
nguồn kinh phí dành cho R&D cũng bị mất đi. Cơ quan nghiên cứu

23
không hợp tác được với các doanh nghiệp, cho nên thiếu kinh phí
R&D và chi phí thực nghiệm trung gian. Vì vậy, đại đa số những
thành quả KH&CN chỉ toàn là những kết quả không thực tế, theo đuổi
những công nghệ tiên tiến nhất, hoặc chỉ dừng lại ở giai đoạn thực
nghiệm trung gian. Tình trạng này tạo ra một môi trường sản xuất
không sáng tạo, không tìm tòi công nghệ, thiếu năng lực xúc tiến vào
thị trường. Kết quả là hiệu suất sản xuất và năng lực cạnh tranh công
nghiệp quốc tế của Trung Quốc thấp. Nhờ công cuộc cải cách và mở
cửa nên tình trạng này đã được thay đổi, sự tách biệt giữa sản xuất và
R&D dần dần đã được thu hẹp lại.
 Xem thường việc theo đuổi phát triển sản xuất, sử dụng tích lũy
công nghệ để phát triển kinh tế. Đầu tư thiết bị thái quá từ mấy chục
năm trước đã ảnh hưởng to lớn đến hàng chục vạn nhà máy có từ lâu.
Nghĩa là, thiết bị nhà máy cũ đã bị lão hóa, công nghệ cũng đã rất cũ.
Hàng hóa được sản xuất ra từ công nghệ quá cũ này đã lạc hậu so với
thời đại. Do không có vốn để đưa công nghệ thiết bị mới vào thay thế

nên các doanh nghiệp vẫn phải duy trì sự sản xuất trong tình trạng
thiết bị lạc hậu và không có năng lực cạnh tranh cả trên thị trường
trong nước cũng như quốc tế. Ngay cả hiện nay, quá trình công nghiệp
hóa của Trung Quốc vẫn lấy sự tăng cường về lượng của các ngành
sản xuất làm trung tâm, nền kinh tế ở tình trạng quá nóng thì Chính
phủ phải bắt tay vào điều chỉnh lại. Tình trạng này lặp đi lặp lại nhiều
lần, tư tưởng chiến lược cơ bản đó chỉ theo đuổi sự tăng trưởng cao,
thúc đẩy sự phát triển về lượng các ngành sản xuất bằng áp lực hành
chính. Thực tế ở Trung Quốc đã chứng minh rằng, muốn phát triển
sản xuất mà không đi đôi với đổi mới công nghệ thì sẽ không có hiệu
quả, chẳng qua đó chỉ là biểu hiện bên ngoài của sự theo đuổi phát
triển đơn thuần về lượng mà thôi.
3.2. Kinh nghiệm chuyển giao công nghệ trong ngành chế tạo
Thái Lan
ở Thái Lan, ngành chế tạo đã ổn định trên 3 thập kỷ nay. Tuy vậy, công
nghệ chế tạo lại nằm trong tay các công ty nước ngoài, có thể nêu ra các lý do:
Thứ nhất, sự phát triển của ngành chế tạo phụ thuộc vào đầu tư của nước ngoài
hơn là đầu tư trong nước. Thứ hai, ngành chế tạo phát triển trong thời kỳ

24
hướng ra xuất khẩu hơn là thời kỳ thay thế nhập khẩu. Thứ ba, Chính phủ Thái
Lan hỗ trợ cho các doanh nghiệp tư nhân trong R&D và chuyển giao công nghệ
nhưng không phát huy được vai trò tích cực để phát triển công nghệ của Thái
Lan. Trong ngành chế tạo ở Thái Lan, có 2 nhóm ngành có đặc trưng cho ngành
chế tạo: Thứ nhất, là ngành điện tử, dựa vào sự đầu tư của nước ngoài nên phát
triển khá cao, xuất khẩu được nhiều mặt hàng điện, điện tử. Thứ hai, là ngành
công nghiệp máy công cụ, đầu tư của nước ngoài thấp hơn nên xuất khẩu ít,
kém phát triển hơn, ngành chỉ giới hạn trong phạm vi một số sản phẩm nhất
định.
A/ Ngành sản xuất điện tử:

(a) Thời kỳ thay thế hàng nhập khẩu (1960-1970):
Từ nửa đầu của thời kỳ này, 50% đầu tư vào ngành sản xuất điện tử là từ
Nhật Bản. Nhờ chính sách thay thế hàng nhập khẩu và quy chế khuyến khích
đầu tư của Chính phủ Thái Lan nên 10 công ty được thành lập trong thời kỳ
này, trong đó có 5 công ty liên doanh với Nhật Bản chi phối phần lớn sản phẩm
điện-điện tử. Năm công ty đó là Công ty Điện máy SANYO-Yunibasaru (Công
ty Điện tử Sanyo), National Thailand (Công ty Điện tử Matsushita), Công ty
Điện tử Kanyong (Mitsubishi), Công ty Điện tử Toshiba Thai Ltd (Toshiba) và
Công ty Điện tử Hitachi Consuma Product (Công ty Hitachi). Điều đó chứng tỏ
đầu tư của Nhật Bản chiếm một vị trí rất quan trọng nên ngành công nghiệp đó
của Thái Lan trong thời kỳ này phát triển rất mạnh. Thứ nhất, là do thị trường
Thái Lan rộng lớn đang được bảo hộ. Thứ hai, là Chính phủ khuyến khích
tuyên truyền, quảng cáo rất mạnh. Thứ ba, thực tế trong thời kỳ này Tivi đen
trắng và đài bán dẫn là những sản phẩm mới đang bán chạy ở thị trường Thái
Lan.
(b) Thời kỳ chuyển tiếp (1971-1980):
Thời kỳ này Chính phủ Thái Lan khuyến khích xuất khẩu nhằm chuyển
hướng nền kinh tế từ sản xuất thay thế nhập khẩu sang sản xuất hướng về xuất
khẩu. Thời kỳ này có 3 công ty của Mỹ đầu tư vào lĩnh vực IC để xuất khẩu
sản phẩm. Năm 1974, nhiều công ty đa quốc gia của Mỹ đã được thành lập ở
Thái Lan như Công ty Noshonal, Semicontactor, Shikunetiks, Deta General.
Nhờ có các công ty này sản xuất xuất khẩu IC với kim ngạch lớn nên việc sản
xuất các mặt hàng lắp ráp tiêu dùng trong nước được chuyển sang sản xuất

×