Tải bản đầy đủ (.pdf) (15 trang)

Lịch sử quân sự việt nam - tập 1: Buổi đầu giữ nước - bài 6 potx

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (434.83 KB, 15 trang )

Lịch sử quân sự việt nam - tập 1: Buổi đầu giữ nước [bài 6]
II. NƯỚC VĂN LANG – ÂU LẠC. SỰ HÌNH THÀNH CỦA NHÀ NƯỚC, VẤN ĐỀ
CƯƠNG VỰC LÃNH THỔ,
CỘNG ĐỒNG DÂN CƯ VÀ THIẾT CHẾ CHÍNH TRỊ XÃ HỘI

Sau khi trải qua quãng đường dài hàng chục vạn năm của thời đại đồ đá, tổ tiên ta đã biết
đến kỹ thuật luyện kim đúc đồng, đưa đất nước bước vào thời kỳ phát triển mới - thời kỳ
dựng nước và giừ nước đầu tiên của dân tộc. Bước ngoặt lịch sử đó diễn ra cách ngày nay
trên dưới 4.000 năm, mà trong ký ức của dân tộc còn giữ lại được nhiều đường nét cư
bản, nhiều kỷ niệm về cái thuở ban đầu thuần phác, hồn nhiên, gian lao và anh dũng đó,
được huyền thoại hoá trong các câu chuyện thần kỳ về dòng giống Rồng Tiên, về Sơn
Tinh - Thủy Tinh, về Thánh Gióng trừ phá giặc Ân, về Vua Hùng dạy dân trồng lúa,
những sự tích về trầu cau, bánh dày bánh chưng. . .
Những mảnh rời vỡ của lịch sử dựng nước đó còn được bảo lưu trong nhiều tập tục, nhiều
sinh hoạt văn hoá cổ truyền của nhân dân, được phục nguyên lại ngày một chính xác hơn,
đầy đủ hơn bằng chính lịch sử được vật chất hoá và lưu truyền lại tới ngày nay và đã
được khảo cổ học phát hiện. Bởi lẽ đó, chỗ dựa chính cho việc xem xét, phân tích những
tiền đề lịch sử dẫn tới sự hình thành của nhà nước sớm nhất trong lịch sử nước ta - nhà
nước Văn Lang - Âu Lạc thành là những chứng tích khảo cổ học (xem bảng 1)

1. Phát triển và chuyên hoá sản xuất:

Từ bảng dẫn giải những chứng tích khảo cổ học trên cho thấy: Con người từng bước mở
rộng không gian sống của mình bằng cách bám sát và tận dụng hoàn cảnh tự nhiên thay
đổi (biển rút, hình thành các châu thổ rộng lớn ), nhờ những tiến bộ kỹ thuật đã đạt
được. Trong cuộc đấu tranh khắc phục và hoà điệu với tự nhiên, con người đã có trong
tay những công cụ sắc bén hơn. Bên cạnh những cây rìu, lưỡi cuốc đá, đã xuất hiện
những nông cụ mang tính cách mạng. Đó là những lưỡi cày kim loại bằng đồng thau,
liềm, nhíp bằng đồng rồi bằng sắt.

Hàng trăm lưỡi cày đồng thau đựng trong một chiếc trống đồng tìm thấy gần đây (1982)


ở Mả Tre (Cổ Loa) và hàng trăm lưỡi cày đồng khác có mặt từ thượng nguồn sông Hồng
(Lào Cai) đến bờ sông Nhật Lệ (Quảng Bình) cùng với vết tích nhiều xương răng trâu bò
nhà, tượng trâu bò tìm được trong nhiều di chỉ khảo cổ học Con trâu - cái cày, hình
tượng trung tâm của bức tranh đồng quê còn được phản ánh cả trong tập tục chôn cất
người chết. Trong ngôi mộ thạp ở Vạn Thắng (Phú Thọ) đã tìm thấy lưỡi cày đồng hình
tam giác có dáng rất chắc khoẻ cùng với răng loài trâu bò nói lên phương thức canh tác
dùng cày và sức kéo gia súc đã là phương thức canh tác nông nghiệp phổ biến và chủ yếu
của người Việt cổ.

Nhờ đất đai phì nhiêu, “đất Giao Chỉ rất là tốt, nhiều màu mỡ v.v ”, được sử sách cổ của
Trung Quốc ghi lại như sách Phiên Ngung tạp ký của Trịnh Hùng đời Đường, Thái Bình
hoàn vũ ký của Nhạc Sử đời Tống , nhờ nước và ánh sáng dư thừa, cây lúa cho năng
suất cao, có thể cấy trồng hai vụ. Tài liệu khảo cổ học đã phát hiện ra vết tích vỏ trấu
trong khu mộ táng Làng Vạc. Kết quả phân tích của các nhà chuyên môn nông sinh học
(Nguyễn Xuân Hiển, 1981) cho biết, có khả năng đó là những hạt lúa chiêm . . . Kỹ thuật
canh tác mới đưa năng suất nghề trồng lúa nước lên cao, có thể tạo ra sản phẩm dư thừa,
có thể nuôi sống một số người làm thêm hoặc làm chuyên những công việc khác.

Đó là tiền đề cho việc tách một số ngành thủ công khỏi nông nghiệp. Có thể thấy những
biểu hiện đầu tiên của quá trình đó ngay từ giai đoạn văn hoá Phùng Nguyên - tức giai
đoạn đầu của thời kỳ Hùng Vương - qua sự xuất hiện nhiều kiểu loại đồ gốm mang tính
nghệ thuật cao, được tạo dáng mỏng đều trên bàn xoay, được nhúng quét một lớp nước
bột sét pha màu đỏ tạo ra lớp áo mịn bóng, trên đó khắc vẽ trang trí những đồ án hoa văn
hình học đối xứng. Đó là sự xuất hiện hàng loạt những địa điểm khảo cổ học về nơi chế
tạo công cụ sản xuất hay đồ trang sức bằng đá.

Những trung tâm đúc đồng lớn như Làng Cả (Phú Thọ), Cổ Loa (Hà Nội) . . . ra đời.
Nghệ thuật pha chế tỷ lệ hợp kim đã tạo ra các sản phẩm có tính năng, công dụng thích
hợp, giá trị kỹ thuật và nghệ thuật đều ở đỉnh cao thời đại.


Nghề rèn đúc kim loại sắt cũng ra đời trong văn hoá Đông Sơn và ngày càng phát huy
được tác dụng mạnh mẽ. Ở Gò Chiền (Thú Thọ) đã tìm thấy vật phẩm ôxyt sắt có tỷ lệ
Fe2o3 lớn, được tạo ra trong lò luyện quặng hoàn nguyên. ở các địa điểm khác như Chiền
Vậy, Vinh Quang (Hà Tây) đã tìm thấy nhiều quặng sắt và rỉ sắt. ở Vinh Quang còn gặp
cả một đoạn ống bể mà ở đầu còn dính rỉ sắt. Vết tích luyện sắt còn thấy ở Đồng Mỏm
(Nghệ An), ở Xuân Giang (Hà Tĩnh)

Hàng trăm chiếc trống, thạp, thố, bình, âu, lọ bằng đồng to đẹp hoa mỹ được người thợ
đúc Đông Sơn chuyên nghiệp, tài ba giàu kinh nghiệm tạo ra. Đó là những sản phẩm có
giá trì cao về vật chất và tinh thần, về kỹ thuật và nghệ thuật. Một trống đồng có thể đổi
được hàng trăm, nghìn con trâu bò. Người nào có được hai hay ba trống đồng là có thể
“tiếm hiệu xưng vương” (Minh sử- quyển 212) .

2. Phân chia giàu nghèo và phân hoá xã hội:

Tài liệu khảo cổ học không cho biết nhiều về các thủ đoạn biến sản phẩm thừa của xã hội
thành tài sản riêng của tầng lớp người nào đó, song nó lại khẳng định một cách chắc chắn
sự hiện diện của bất bình đẳng tài sản giữa các thành viên hay nhóm thành viên của cộng
đồng cư dân Đông Sơn. Điều đó có thể nắm bắt được qua phân tích tư liệu các mộ táng
Đông Sơn.

Xã hội Đông Sơn là một xã hội của người Việt cổ - một xã hội đã qua mà sự hiện hữu của
nó chỉ còn có thể nắm bắt được qua lưu ảnh của nó trong các tài liệu khảo cổ học và được
ảnh xạ qua các văn hoá truyền thống nối tiếp của nhiều cộng đồng tộc người sống trên đất
nước Việt Nam hiện nay.

Do vậy, để phân định được các lớp người khác nhau về thân phận, về tài sản trong xã hội
Việt cổ thời nước Văn Lang - Âu Lạc, có thể tìm đến các ghi ghép, dù là tản mạn và rời
rạc trong các thư tịch cổ, hoặc tìm đến các bằng chứng dân tộc học sống động. Trong thư
tịch cổ như Quảng Châu ký (thế kỷ V) có thể thấy nhiều loại người khác nhau: “Người

cày ruộng” và “người ăn ruộng”.
Tư liệu dân tộc học cung cấp những bằng chứng sống động hơn về sự phân biệt giàu
nghèo, sang hèn trong xã hội qua sự khác biệt về cách ăn ở, trang phục, về nghi lễ ma
chay

Ở người Cà Tu, xã hội được chia ra bốn loại: Kavan (giàu), kapoh (khá giả), pơpăng (đủ
ăn) và haul nghèo). Các xã hội người Ê Đê, Hrê, Xtiêng đại thể cũng có bốn loại người
như vậy. Trong xã hội người Xtiêng kẻ tôi tớ là người không có chút tài sản nào. Người
nghèo là những thành viên của gia đình thiếu ăn đến 8-9 tháng trong năm. Trong khi đó
người giàu, có nhà lại có tới 100 con trâu, 4 bộ chiếng lớn, 11 bộ chiếng nhỏ, 27 ché
Sleng (đắt tiền), 8 ché Kri và 50 tôi tớ. . .

Trở lại nguồn tư liệu khảo cổ học - chỗ dựa chính để phục dựng bộ mặt xã hội thời Đông
Sơn, tức xã hội thời nước Văn Lang - Âu Lạc.

Hiện chúng ta không có trong tay những tư liệu về nhà ở nói lên sự khác biệt của các tầng
lớp trong xã hội. Những khúc gỗ, đoạn cây có vết chặt, đẽo, đục, gọt tìm được khi khai
quật di tích Đông Sơn, chỉ cho hay về một loại nhà sàn đơn sơ. Trên trống đồng có khắc
hình những ngôi nhà sàn mái cong to rộng, và những ngôi nhà mái tròn nhỏ hơn.


Về cách ăn mặc cũng vậy, ngoài những trang phục áo mũ lông chim mặc trong ngày hội
thì tượng người phụ nữ đúc trên những chuôi kiếm hay dao găm đồng Đông Sơn gợi lên
cách trang phục của người quyền quý: đầu đội khăn tết thành bông hoa nhiều cánh, áo
váy dài có hoa văn trang trí đẹp thắt bao đầu múi được thêu hoa văn, mặc yếm và đeo
chuỗi hạt trang sức trên cổ chỗ dựa chính để nhận biết sự phân hoá tài sản và xã hội là
tư liệu về các ngôi mộ táng thời Đông Sơn.

Nổi lên trong số những bãi mộ đất có ở khắp mọi nơi, là những ngôi mộ mà người chết
được chôn trong các thạp đồng hay trống đồng sang trọng to lớn. Những ngôi mộ này hẳn

thuộc tầng lớp giàu sang trong xã hội.

Giàu nghèo, sang hèn là hai thái cực mà giữa chúng có vô vàn những điểm chuyển tiếp,
hơn nữa khái niệm này được hiểu cũng rất đa dạng và rất cụ thể ở từng xã hội, từng thời
đại nhất định. Đối với xã hội Đông Sơn - một xã hội mà ở đó đồ đồng đã phát triển rực
rỡ, đồ sắt phát huy sức mạnh ưu việt của nó như một ma lực, trong xã hội này, người nào
có trong tay những trống thạp hoa mỹ, những vũ khí bằng sắt sắc bén như kiếm, dao
găm hẳn là những người thuộc tầng lớp giàu sang có quyền thế. Còn người nào khi chết
chỉ được bó chiếu, chôn theo một hai chiếc nồi, bát bằng gốm; thảng hoặc có được thêm
đôi vòng tai đá , hẳn là những người nghèo khó, thậm chí có nhiều mộ táng trong khu
mộ không có một đồ tuỳ táng nào chôn theo, hẳn thuộc về hạng người còn hèn kém hơn.

Đối với những ngôi mộ mà đồ tuỳ táng là những vật thông thường với số lượng không
nhiều lắm: dăm ba hiện vật bằng đồng thau, một hai công cụ sắt, vài đôi vòng trang sức
bằng đá hay thuỷ tinh. . . có thể xem như mộ táng của những người thuộc tầng lớp trung
lưu.
Bảng 2 phân tích 714 ngôi mộ có niên đại Đông Sơn ở năm khu mộ nổi tiếng là Thiệu
Dương, Đông Sơn (Thanh Hoá), Làng Cả (Phú Thọ), Vinh Quang (Hà Tây) và Làng Vạc
nghệ An).

Có thể thấy những ngôi mộ nghèo có số lượng nhiều hơn cả chiếm 51,9% tổng số các mộ
được phân tích; thứ đến là những ngôi mộ mà chủ nhân của chúng đại đa số là những
người bình dân, những thứ dân được thư tịch cổ gọi là lạc dân, là han chiếm tỷ lệ đáng kể
41,4%. Những ngôi mộ giàu chôn théc nhiều đồ đồng, đồ sắt trong đó các đồ đồng sang
trọng như trống, thạp, thố, bình, lọ, âu muối, tượng. . . thường chiếm tỉ ệ nhỏ 6%. Diện
mạo chung nổi lên vẫn là những ngôi mộ đơn giản.

Tiến thêm một bước trong việc tìm hiểu hiện trạng phân hoá xã hội, có thể phân tích bộ
đồ tuỳ táng từ góc độ xét theo tính năng công dụng của chúng để phần nào biết thêm
đươc thân phận và vị trí xã hội của chủ nhân chúng (xem bảng 3).

Bảng 3 cho thấy những ngôi mộ không có đồ tuỳ táng hay chỉ có đồ dùng sinh hoạt mà
tuyệt đại đa số là những đồ đựng thông thường bằng gốm chiếm tới 53,6% tổng số mộ.
Những ngôi mộ có chôn theo công cụ sản xuất bằng đồng hay bằng sắt chỉ chiếm 11%.
Điều đó nói lên nhiều hơn về tình trạng đồ kim loại còn quý, người xưa không dễ dàng để
bao giờ cũng chôn theo cho người chết, hơn là về tình trạng tách rời sản xuất của chủ
nhân chúng. Những ngôi mộ có chôn vũ khí cùng các đồ vật khác chiếm tỷ lệ đáng kể
(34,5%). Điều đó cho thấy vũ khí có ý nghĩa to lớn như thế nào đối với đời sống con
người, đồng thời cũng nói lên xung đột xã hội, chiến tranh nhằm hợp nhất hay mở rộng
đất đai hay để tự vệ hoặc tiến công đánh trả kẻ thù từ ngoài tới, đã trở thành hiện tượng
đáng quan tâm của xã hội.

Bảng 3 còn cho thấy, đối với từng di tích cụ thể trong từng khu vực và ở từng giai đoạn
cụ thể thì kết cấu và tỷ lệ của từng loại mộ phân theo tính chất đồ tuỳ táng có khác nhau.
Ở các di tích mang ý nghĩa trung tâm của cả cộng đồng như di tích Làng Cả thì tình trạng
phân hoá tài sản, phân tán xã hội diễn ra sâu sắc hơn.

Tỉ lệ các ngôi mộ có chôn theo vũ khí ở từng khu mộ có niên đại sớm muộn theo thời
gian, phản ảnh mức độ căng thẳng của hiện trạng xã hội cũng tăng Nghiên cứu các bộ sưu
tập đồ đồng thau ở một số điểm nổi tiếng và tiêu biểu của văn hoá Đông Sơn cho thấy
một bức tranh tổng quát về xã hội Đông Sơn ở khía cạnh tập trung và gia tăng giàu có,
cũng như ở góc độ mâu thuẫn xung đột xã hội, có thể được trình bày tóm tắt trong bảng
thống kê dưới đây:

Nhìn chung, lượng vũ khí bằng đồng thau vẫn chiếm tỷ lệ cao ở hầu hết các di tích này,
riêng ở Làng Vạc tỷ lệ vũ khí có phần thấp hơn. Điều đó được giải thích phần nào do vị
trí của địa điểm này nằm khá xa cách các trung tâm của đồng bằng sông Lam và sâu vào
vùng trung du đồi gò giáp núi, nơi mà các thế lực bành trướng khó vươn tới.

Đồ dùng sang trọng như trống, thạp, thố, bình, âu chiếm tỷ lệ đáng kể, đặc biệt ở các
địa điểm mang ý nghĩa trung tâm như Làng Cả, Đông Sơn, Làng Vạc là những nơi sống

tập trung tầng lớp quý tộc, các thủ lĩnh lớn của cả nước hay của một vùng rộng. Càng về
cuối thời Đông Sơn, ở các trung tâm này, lượng đồ tuỳ táng sang trọng trong đó có di vật
ngoại lai hay mô phỏng ngoại lai cũng tăng nhiều.

Tóm lại, từ những tư nếu vừa trình bày trên có thể thấy, sự phân hoá đã diễn ra trong xã
hội Đông Sơn. Trước tiên và rõ ràng hơn cả là sự phân hoá tài sản, phân cực giàu sang,
hèn kém. Từ khối cộng đồng cư dân khá thống nhất hình thành trong các thời kỳ tiền
Đông Sơn, phát triển dần đến giai đoạn Đông Sơn đã phân hoá thành ba lớp người cư
bản: lớp người giàu sang quyền quý, lớp dân tự do - các thành viên công xã có mức sống
trung lưu và lớp người bị bóc lột.

Trong chuyện Bánh dày bánh chưng, tác giả Lĩnh Nam chích quái cho biết “Đồng bộc nô
tỳ cày bằng lửa, trồng bằng dao”. Điều đó nói lên tầng lớp nô tỳ ngoài phận sự phải làm
việc hèn hạ trong nhà chủ, còn phải tham gia lao động trực tiếp làm ra của cải cho chủ.
Như vậy là, trong xã hội Đông Sơn đã tồn tại quan hệ bóc lột nô lệ cả trong lĩnh vực sản
xuất, dù rằng họ không phải là lực lượng lao động xã hội chủ yếu.

Điểm nổi bật và chung nhất của hiện trạng phân hoá xã hội trong xã hội Đông Sơn là, do
những điều kiện lịch sử nhất định quy định, sự phân hoá đó diễn ra không thật sâu sắc Sự
cách biệt giữa các tầng lớp xã hội không lớn lắm, nhất là ở giai đoạn đầu “thời Hùng
Vương, vua tôi cùng đi cày, cha con cùng tắm chung một dòng”. Tài liệu khảo cổ học
cũng cho hay, không gặp những mộ tuẫn táng nô lệ.

Về đại thể, những ngôi mộ giàu có vẫn được chôn theo cả công cụ sản xuất bên cạnh các
đồ vật sang trọng. Tuy nhiên, nhìn vào tỷ lệ các loại mộ có thể thấy loại mộ nghèo chiếm
tới 51% tổng số các ngôi mộ. Trong năm khu mộ táng văn hoá Đông Sơn quan trọng có
thể thấy sự bần cùng hoá xã hội như một xu thế diễn ra tất yếu và sự cách biệt về thân
phận cũng được xác lập rõ ràng. Điều đó được minh hoạ thêm bằng hiện trạng phân bố
các mộ táng ở khu mộ Làng Cả. Ở khu mộ này có riêng hẳn một vành đai ngoại vi giành
cho người khốn khó mà trong ngôi nhà của họ ở làng ma này không có lấy một đồ vật tuỳ

thân nào. Đây là một bằng chứng nói lên sự phân hoá xã hội của người kinh kỳ Làng Cả,
vùng đóng đô của các vua Hùng không chỉ dừng lại ở mức hình thành các tầng lớp người
khác nhau mà đã đạt tới mức sự khác nhau được quy cách hoá thành chuẩn mực nhất
định, phản ánh trong xã hội đang dần hình thành nên các giai cấp đối kháng đầu tiên. Tuy
sơ khai song cũng đủ nảy sinh nhu cầu cần phải có một bộ máy quyền lực công ra đời. Bộ
máy này, ngoài các chức năng kinh tế - xã hội, còn có chức năng điều tiết các mối quan
hệ, các mâu thuẫn, các quyền lợi đối lập nhau của các tầng lớp dân cư khác nhau trong
một cộng đồng thống nhất.

3. Tổ chức xã hội:

Quá trình phân hoá xã hội diễn ra trên cư sở sức sản xuất phát triển cao dẫn tới những
biến đổi mạnh mẽ trong thể chế xã hội với những quan hệ tương ứng của nó được phản
ánh trong tổ chức gia đình - làng xã, liên làng xã (bộ, bộ chủ nước) cùng những mối quan
hệ của chúng.

Trong giai đoạn Phùng Nguyên, tương ứng với giai đoạn đầu của thời kỳ Hùng Vương,
sự chênh lệch về đồ tuỳ táng biểu hiện trong khu mộ táng Lũng Hoà (Vĩnh Phú) với ngôi
mộ số 9 có qua đá và các hạt trang sức bằng đá ngọc chôn theo, sự hiện diện của pho
tượng đá đàn ông ở di chỉ Văn Điển (Hà Nội) được xem như dấu hiệu của sự ra đời chế
độ phụ hệ. Sang giai đoạn Đông Sơn - cuối thời Hùng Vương - thời An Dương Vương có
thêm nhiều bằng chứng để nói về bước chuyển sang phụ hệ đó.
Tại khu cư trú Đông Sơn đã phát hiện được các nền nhà có diện tích nhỏ khoảng 9m2 và
những nền nhà mà số lượng và cách bố trí các hàng lỗ cột trên đó cho hay quy mô của
nhà có diện tích rộng tới 72m2.

Tư liệu mộ táng cũng gợi lên những suy nghĩ đáng chú ý. Trong ngôi mộ số 1 khu mộ núi
Nấp (Thanh Hoá) đã phát hiện được 2 bộ xương, một của người đàn ông trạc 50 tuổi, một
của phụ nữ trạc 30 tuổi được táng chồng lên nhau. Bộ xương người đàn ông nằm trên. Đồ
tuỳ tảng ngoài công cụ vũ khí bằng đồng như rìu, giáo đáng chú ý là chiếc ấn bằng ngà

khắc chữ Tỷ (chữ Hán) và chiếc lược ngà có 6 răng. Hai bộ xương được định chủng
thuộc loại hình Inđônêdiêng mà người đàn ông có thể là một thủ lĩnh địa phương được
phong chức vị. Cũng trong khu mộ này, ở ngôi mộ số 2 có xương một người đàn ông trạc
30-40 tuổi chôn cùng một huyệt với 4 cá thể khác trong đó có một trẻ em. Mộ còn chôn
theo trống, thạp và nhiều đồ đồng khác, chứng tỏ chủ nhân của nó cũng thuộc lớp người
có quyền thế. Mộ số 2 có chôn tới năm cá thể này có khả năng là mộ chôn riêng giành
cho mỗi gia đình mà người chết lần lượt được táng chung trong một hố. Ở các khu mộ
táng khác như Thiệu Dương, Quỳ Chữ. . . cũng gặp trường hợp có mộ táng chồng và là
những cặp đôi nam nữ.
Các tài liệu về nhà ở của người sống, mộ địa của người chết đã bổ sung cho nhau góp vào
soi sáng tổ chức đơn vị xã hội cư sở có nhiều khả năng là gia đình phụ hệ. Hướng tìm tòi
này còn được bổ sung bằng các truyền thuyết thời Hùng Vương như Sơn Tinh - Ngọc
Hoa, Chữ Đồng Tử - Tiên Dung, Trầu Cau . . . cũng như những con số điều tra về hộ
khẩu vào đầu thời Bắc thuộc cho thấy ở quận Giao Chỉ bắc Bộ) trung bình mỗi hộ có tám
người, ở quận Cửu Chân (bắc Trung Bộ) trung bình mỗi hộ có khoảng 4-5 người (Tiền
Hán thư - Địa lý chí - quyển 28 hạ) . Thêm vào đó, ngôi thủ lĩnh - Khun (Hùng) được
truyền cho con trai theo chế độ thế tập.

Các gia đình phụ hệ này không cư trú độc lập thành một khu riêng biệt mà sống chung
với nhau trong một chạ, ban đầu thường do một dòng họ lập nên.

Một vấn đề nảy sinh cần được soi sáng là phải chăng các khu cư trú thời Đông Sơn là địa
bàn sinh tụ của một thị tộc, một dòng họ hay gồm nhiều gia đình từ nhiều thị tộc dòng họ
khác nhau họp thành?

Tài liệu hiện biết từ các khu cư trú Đông Sơn, chưa cho những bằng chứng tin cậy về tính
đa hợp của chúng. Tính lô gích của lối cư trú đa hợp này có thể thấy rõ hơn qua tư liệu
mộ táng thời ấy. Ví như ở Đọi Sơn (Hà Nam), núi Nấp (Thanh Hoá). Đó là những khu
mộ táng thuộc về cùng một văn hoá, thậm chí một giai đoạn văn hoá. Các đồ tuỳ táng
chôn trong các ngôi mộ ở đây đều giống nhau, song chủ nhân chúng lại không cùng huyết

thống, cùng sắc tộc. Phân tích các cốt sọ còn định chủng được cho thấy ở núi Nấp có 13
sọ thuộc loại hình Inđônêdiêng và 6 cốt sọ thuộc loại hình Đông - Nam á. Ở Đọi Sơn có
hai sọ Inđônêdiêng và hai sọ Đông - Nam á (Nguyễn Lân Cường, 1984).

Đáng chú ý là trong quá trình diễn biến nhân chủng chuyển hoá loại hình này, đã xảy ra
hỗn chủng theo xu thế giảm đen và giảm thô. Loại hình Inđônêdiêng vẫn tồn tại đậm đà
trong cư dân Đông Sơn song càng ra phía bắc và càng muộn về sau thì yếu tố vàng càng
đậm, loại hình Đông - Nam Á vượt trội lên. Điều đó phản ánh quá trình cộng cư đan xen
tộc người diễn ra mạnh mẽ vào giai đoạn Đông Sơn muộn và hậu Đông Sơn.

Xét về mặt xã hội thì sự khác nhau về thể hình này mách chỉ rằng đó không phải là những
người cùng thuộc về một dòng họ mà là từ các thị tộc bộ lạc thậm chí các bộ tộc khác
nhau cùng họp lại, cùng cộng cư bên nhau. Quá trình chung sống, cùng có chung một số
phận này đã tạo ra cho họ có cùng một lối sống biểu hiện ở những nét văn hoá chung.
Chính trong các điều kiện lịch sử này mà các sắc tộc, các nhóm ngôn ngữ cũng dần tác
động lên nhau, hoà nhập vào nhau để tạo thành một cộng đồng thống nhất.

Quá trình thống nhất của văn hoá Đông Sơn - một sự thống nhất trong đa dạng, thoáng,
mở, xét về mặt xã hội cũng là quá trình định hình cương giới, hình thành các tổ chức
thang bậc xã hội qua các mức: kẻ (chạ) - bộ - bộ chủ - nước mà trong đó kết cấu làng -
nước là xuyên suốt và lối ứng xử “sống ở làng sang ở nước” đã đi vào tâm thức người
Việt.

Truyện Họ Hồng Bàng trong sách Lĩnh Nam chích quái chép về cương vực nước Văn
Lang như sau:

“Âu Cơ và 50 con lên đất Phong Châu, suy phục lẫn nhau, cùng tôn người con cả lên làm
vua hiệu là Hùng Vương, lấy tên nước là Văn Lang, đông giáp Nam Hải, tây tới Ba Thục,
bắc tới hồ Động Đình, nam tới nước Hồ Tôn. Chia nước làm 15 bộ”1.


1 Theo Vũ Quỳnh - Kiều Phú: Lĩnh Nam chính quái, Nxb. Văn hoá, Hà Nội, 1960, tr. 23.
Rõ ràng đó không phải là cương vực nước Văn Lang, cũng khó nói đó là cương vực nước
âu Lạc rộng lớn hơn, sau khi An Dương Vương hợp nhất Văn Lang vào khối liên minh
Tây Âu của mình.

Tuy nhiên việc chỉ định tiếp theo về vị trí của 15 bộ trong phạm vi miền Bắc nước ta từ
Quảng Bình trở ra lại rất đáng chú ý, bởi lẽ cương vực đó khá phù hợp với vị trí phân bố
của văn hoá Đông Sơn giai đoạn sớm và giai đoạn phát triển. Tuy nhiên ở giai đoạn văn
hoá Đông Sơn cực thịnh (khoảng thế kỷ thứ ba đầu thế kỷ thứ hai trước công nguyên) văn
hoá Đông Sơn mang những sắc thái mới, phạm vi ảnh hưởng và mối giao lưu văn hoá
được mở rộng, rõ rệt nhất là với thế giới Bách Việt vùng Giang Nam . Trong bộ di vật
đồng Đông Sơn, yếu tố vùng cao (Âu) được khắc hoạ rõ nét lưỡi cày đồng hình tim, dao
găm chắn tay ngang, rìu xéo hình bàn chân, trống đồng Đông Sơn (dòng thân choãi ).
Những loại hình di vật này cũng gặp đồng bộ hay đơn loại trong các địa điểm Thạch Trại
Sơn, Lý Gia Sơn, A Chương Trại (Vân Nam), Phổ Đà Oa Cái Lĩnh, La Bạc Loan (Quảng
Tây) Do vậy trong một chừng mực nào đó, có thể xem một phần đất phía đông nam
tỉnh Vân Nam; tây nam và nam tỉnh Quảng Tây và tây nam tỉnh Quảng Đông là nằm
trong cương vực hay phạm vi ảnh hưởng qua lại của vương quốc Âu Lạc.

Dù sao thì địa bàn trung tâm của văn hoá Đông Sơn (cũng là của quốc gia Văn Lang - Âu
Lạc) là vùng trung du và đồng bằng Bắc Việt Nam nơi đất đai phì nhiêu, cư dân dân đông
đúc, giao thông thuận tiện, kinh tế văn hoá có điều kiện phát triển nhanh, văn minh chớm
nở sớm (bản vẽ 2. Sơ đồ phân bố các di tích Đông Sơn ở Việt Nam).

Về kết cấu xã hội có thể nói, tổ chức làng (kẻ, chạ) là hình ảnh thu nhỏ giản đơn của tổ
chức nước và ngược lại, nước là hình ảnh mở rộng cao nhất và tinh tế nhất của tổ chức
làng.

Các khu cư truông Sơn được xem như những đơn vị tổ chức xã hội cư bản - những công
xã nông thôn, láng giềng. Các khu đó thường tập trung không xa lắm, họp thành một cụm

trong đó nổi lên vài di tích trung tâm, ở đó thường có vết tích nghề thủ công chuyên như
đúc đồng, rèn sắt, chế tạo đồ trang sức . . . , ở đó có mặt nhiều di vật nhập ngoại từ các
vùng bên trong hay từ ngoại bang đưa tới, nổi lên mối quan hệ rộng rãi do vị trí trung tâm
của mình.

Trong sử sách và truyền thuyết có nhắc đến chia nước Văn Lang thành 15 bộ. Vậy trong
thực tế lịch sử, có tồn tại các bộ như một tổ chức xã hội cấp hai - cấp trên làng không? Để
soi sáng vấn đề này, có thể lấy hai khu vực là vùng ngã ba Hạc Trì và ngã ba Đáy - Nhuệ
để xem xét.

Được biết rằng, ngay từ thời Phùng Nguyên ở đây đã hình thành hai loại hình văn hoá địa
phương: loại hình Gò Bông (Phú Thọ) và loại hình Chùa Gio Hà Tây).

Đến thời Đông Sơn ở hai khu vực này phân bố dày đặc các di tích. Vùng ngã ba Hạc, đó
là các di tích Thanh Đình, Gò Ré, Gò Tôm, Gò Mã Lao, Làng Cả trong đó Làng Cả nổi
lên như một trung tâm mà các đặc trưng văn hoá của nó có thể lấy làm điển hình tiêu biểu
cho một loại hình văn hoá địa phương hẹp hơn mang tên loại hình Làng Cả (Trịnh Sinh
và Nguyễn Thị Chịch, 1977). Còn vùng ngã ba Đáy - Nhuệ vùng quanh Nhổn hình thành
một cụm di tích Đông Sơn khác bao gồm các di tích Phượng Cách, Hoàng Ngô, Vinh
Quang, Chiền Vậy mang đặc điểm của loại hình Đường Cồ.

Qua đó thấy rằng, đây là các khu cư trú của các bộ lạc khác nhau có quan hệ thân thuộc
gần xa. Trong mỗi vùng này nổi lên một trung tâm được xem là nơi ở của thủ lĩnh bộ lạc
hay người đứng đầu bộ mà sử sách gọi là Lạc tướng, với bộ máy quản lý điều hành của
nó. Tổ chức xã hội cấp bộ này rõ ràng có thể so sánh với tổ chức mường trong các xã hội
của người Mường, người Thái trước Cách mạng Tháng Tám. Tổ chức này trực tiếp điều
hành các công xã nhỏ phụ thuộc. Nó có vị trí và vai trò quan trọng trong việc nắm và
khiến đám dân cư trong phạm vi bộ, ở đó quan hệ thân tộc và sắc tộc thể hiện qua đặc
điểm văn hoá rõ ràng vẫn còn rất đậm đà.


Các tư liệu tổng hợp về vàn học dân gian, ngôn ngữ học, dân tộc học, khảo cổ học, nhân
chủng học và lịch sử thành văn cho thấy có nhiều khả năng sẽ tìm ra được ranh giới và
khu vực của các bộ (lạc) xưa đó. Ví như khu vực Văn Giàng có bộ lạc Trâu, Thuận
Thành (Hà Bắc) có bộ lạc Dâu, Việt Trì có bộ lạc Chim (Trần Quốc Vượng, 1996).

Với các đặc điểm địa phương của văn hoá Đông Sơn có thể nghĩ đến một tổ chức liên bộ
với một bộ chủ đứng đầu trước khi hình thành quốc gia thống nhất. Hiện chưa có nhiều
chứng cứ để xét đoán vấn đề này, song có thể cho rằng ở mỗi một trong ba lưu vực sông
đó đã từng cư trú không phải chỉ có một bộ lạc. Thư tịch và truyền thuyết không hề nhắc
tới tổ chức cấp vùng, phải chăng điều đó được cắt nghĩa bằng kết cấu xã hội truyền thống
của người Việt, kết cấu làng - nước với vị trí cư tầng của làng, vị trí liên kết chùm phủ
của bộ mà khi hình thành quốc gia thì bộ được mở rộng, được gắn kết ở mức độ cao hơn
để thành nước.

Tuy nhiên lịch sử cho thấy, sau khi xâm chiếm được vương quốc Âu Lạc, kẻ xâm lược đã
chia cắt đất nước thành các quận để cai trị. Việc chia quận này nếu không dựa vào một tổ
chức cũ có sẵn, thì ít ra cũng dựa vào điều kiện kinh tế - xã hội, tập tục và lối sống của
từng vùng theo chính sách “dĩ kỳ cố tục trị”.

Nhìn lại quá trình phân hoá xã hội, chúng ta thấy xã hội Văn Lang vào cuối thời Hùng
Vương cũng như xã hội Âu Lạc thời An Dương Vương ngắn ngủi tiếp liền đó đã “không
còn là xã hội nguyên thuỷ với sự thống trị của quan hệ huyết thống và sự bình đẳng về
mọi mặt của những thành viên cộng đồng nữa. Giàu nghèo, sang hèn, bất bình đẳng xã
hội đã xuất hiện; xã hội đã mang dấu ấn của xã hội có giai cấp sơ kỳ với những nét đặc
trưng của hình thái Á châu. Tầng lớp dân tự do là thành viên của công xã nông thôn tuy
bị bóc lột nhưng vẫn bảo tồn được nhiều quan hệ bình đẳng trong kinh tế xã hội. Tầng
lớp thống trị đã vượt lên trên xã hội, nhưng chưa tách hẳn khỏi nhân dân và mức độ bóc
lột chưa gay gắt. Tầng lớp nô tỳ bị bóc lột nặng nề hơn nhưng chỉ là tầng lớp thứ yếu
trong xã hội. Đó là bức tranh khái quát về cư cấu xã hội có thể phác hoạ trên cư sở tư
liệu và sự hiểu biết hiện nay”1.


1. Phan Huy Lê - Chử Văn Tần: Xã hội thời Hùng Vương, in trong Hùng Vương dựng
nước, Nxb. Khoa học xã hội, Hà Nội, 1974, T4, tr. 252.
4. Sự hình thành và phát triển nhà nước:

Nhờ những chuyển biến mang tính chất cách mạng trong sản xuất nông nghiệp, trong kỹ
thuật luyện kim và chế tác kim loại đồng, sắt, sức sản xuất đã phát triển mạnh mẽ, thúc
đẩy quá trình xuất hiện sự phân công lao động xã hội quy mô lần thứ hai, tạo đà mở rộng
mối quan hệ giao lưu mang tính chất thương mại trong ngoài. Những thay đổi trong kinh
tế đó đã tạo ra những chuyển biến trong xã hội gây ra sự phân cực phân hóa giàu nghèo,
tạo ra sự phân hoá sang hèn. Mức độ phân hoá chưa cao song lại là tiền đề cần thiết thúc
đẩy sự ra đời của nhà nước. Trong bối cảnh kinh tế - xã hội mới đòi hỏi một bộ máy điều
tiết chung để giải quyết những yêu cầu mới, những mâu thuẫn mới nảy sinh.

Theo chân biển rút, lúc này con người đã xuống đồng bằng thấp, chiếm lĩnh và bước đầu
khai phá nó. Thiên nhiên ở đây là sự thống nhất của hai mặt đối lập: vừa thuận lợi vừa
khắc nghiệt, vừa ưu đãi vừa thử thách. Để trụ vững và mở rộng không gian sinh tồn của
mình, để giành thắng lợi trong cuộc đấu tranh khai phá đất hoang, đẩy lùi rừng rậm,
chống lũ lụt hạn hán, phát triển nghề nông trồng lúa nước, bảo đảm đủ nước cho cây
trồng, đòi hỏi con người cần phải chung sức bền lòng, dày công, kiên định; cần liên kết
trong một tổ chức và cần có một tổ chức để điều hành công việc chung. Đó là yêu cầu
bức thiết và đó cũng là tiền đề thúc đẩy sự ra đời sớm của nhà nước vào cuối thời Hùng
Vương mà một trong các chức năng quan trọng và nổi bật của nó là tổ chức những công
trình công cộng (C.Mác).

Chức năng tổ chức và huy động dân cư đắp đê phòng lụt có chứng tích là dấu vết một
đoạn đê cổ có trước thời Bắc thuộc phát hiện được ở Cổ Loa và sự ghi nhận trong thư
tịch. Chức năng điều tiết nguồn nước sông vào đồng ruộng của các công xã bằng cách tổ
chức đào đắp những kênh mương để dẫn nước, tưới nước được phản ảnh trong sách An
Nam chí lược chép từ sách Giao Chỉ thành ký (Giao Châu ngoại vực ký): “Tưới ruộng

theo nước triều lên xuống”, tất nhiên là phải bằng kênh dẫn dù là còn thô sơ. Những lưỡi
mai, cuốc bằng đá bằng đồng, bằng sắt tìm được ở khắp nơi trong địa vực văn hoá tiền
Đông Sơn và Đông Sơn góp thêm minh chứng cho hoạt động lao động công cộng này.

Khi tổ tiên ta bước vào thời kỳ dựng nước, cũng là lúc cuộc đấu tranh bảo vệ thành quả
lao động và xây dựng sáng tạo được đặt ra đồng thời và cũng không kém phần bức thiết.
Bởi lẽ nước ta ở vào một vị trí mang tính tiếp xúc, là nơi gặp gỡ của nhiều luồng giao lưu
tự nhiên và văn hoá. Nơi quần tụ nhiều loại cây con cung cấp những sản vật quý hiếm
như sừng tê, ngà voi, ngọc trai, trầm hương, quít, vải là những đặc sản hấp dẫn, gợi sự
thèm muốn, trở thành vừa là đối tượng, vừa và động cư của những cuộc xâm lược cướp
bóc.
Về mặt này - mặt xung đột vũ trang gia tăng - tài nếu khảo cổ học cho thấy một hiện
tượng đáng chú ý. Sự phát triển về mặt số lượng của vũ khí từ chỗ dưới 3% tổng số hiện
vật ở thiên niên kỷ 2 đầu thiên niên kỷ 1 trước công nguyên, đã tăng vụt lên tới trên 60%
tổng số di vật ở nửa sau thiên kỷ 1 trước công nguyên. Hơn thế, vào giai đoạn Đông Sơn
nhiều loại vũ khí mới bằng đồng thau ra đời như dao găm, kiếm ngắn, mũi tên ba cánh,
nỏ, chông củ ấu nhiều phương tiện phòng hộ xuất hiện như tấm che ngực, bao tay bằng
đồng, khiên mộc bằng da . . . Hiện tượng khảo cổ học trên chứng tỏ vào cuối thời Hùng
Vương và thời An Dương Vương, con người và xã hội đã trải qua những biến động lớn
lao. Chiến tranh trở thành hiện tượng quyết liệt và phổ biến được thể hiện thành các cuộc
xung đột bên trong và chống xâm lược bên ngoài.

Xung đột bên trong phản ảnh quá trình hợp nhất đất đai, liên kết tộc người thành quốc gia
dân tộc. Điển hình là cuộc chiến tranh Hùng - Thục kéo dài nhiều năm và kết thúc bằng
sự hợp nhất giữa hai tộc Lạc Việt và Âu Việt.

Trước cuộc chiến tranh vĩ đại của người Việt chống sự xâm lược bành trướng của đế chế
Tần được thư tịch cổ của chính người Trung Hoa nói đến Sử ký của Tư Mã Thiên (thế kỷ
I trước công nguyên), Hoài Nam tử của Lưu An (thế kỷ II Tr.CN) thì ngoài ra còn từng
có những cuộc chiến tranh tự vệ quy mô nhỏ khác được phản ánh trong nhiều truyền

thuyết chống các thứ giặc như “giặc man”, “giặc Mũi đỏ”, “giặc Ân” mà nổi bật là truyện
Thánh Gióng, ngợi ca sức mạnh và tinh thần chiến đấu ngoan cường của cư dân Văn
Lang trong buổi đầu dựng nước:

“Yêu cầu tự vệ chững ngoại xâm cùng với yêu cầu thuỷ lợi của nền kinh tế nông nghiệp,
đã có tác động rất mạnh vào quá trình hình thành nhà nước đầu tiên trong lịch sử Việt
Nam. Nhà nước đó ra đời có phần sớm hơn điều kiện chín muồi của sự phân hoá xã hội
và bên cạnh chức năng thống trị, bóc lột, còn phải đảm đương hai chức năng công cộng
quan trọng là xây dựng các công trình thuỷ lợi và tổ chức cuộc chiến đấu chống ngoại
xâm”1.

1. Phan Huy Lê - Trần Quốc Vượng - Hà Văn Tấn - Lương Ninh: Lịch sử Việt Nam, T.l,
Nxb. Đại học và trung học chuyên nghiệp, Hà Nội, 1983, tr. 140.
Theo Việt sử lược, nước Văn Lang được thành lập vào đời Trang Vương nhà Chu (696-
681 Tr.CN). Ghi chép này có phần phù hợp với tư liệu khảo cổ học ở giai đoạn đầu của
văn hoá Đông Sơn khi các đặc trưng cư bản của văn hoá Đông Sơn trong đó có các loại
hình vũ khí đã xuất hiện và có mặt đầy đủ. Trong tình thế, trong bối cảnh xã hội như vậy,
tổ chức nhà nước đã xuất hiện tuy còn đơn sơ.

Một trong những đặc trưng cư bản của nhà nước là bộ máy quyền lực được thể hiện ở các
mặt quan trọng như bộ máy hành chính, lực lượng vũ trang thường trực, luật pháp Về
bộ máy hành chính với hệ thống quan chức của nó đã được ghi chép sơ sài trong thư tịch
và được lưu ảnh trong ký ức dân gian qua truyền thuyết, có thể thấy được ba cấp độ quan
chức tương ứng với ba cấp của bộ máy cai trị.

Đứng đầu các kẻ chạ, các làng xã là các bồ chính. Đó là các chức dịch nhỏ ở các cư sở
được sách gọi là trăm quan. Bồ chính hay pôtrơring là những già làng có kinh nghiệm
sống, có uy tín được kính nể như bố mẹ. Uy quyền của họ ngày càng tăng nhờ giàu sang
và nhờ có chức quyền. Trước Cách mạng Tháng Tám, ở một số vùng nông thôn nước ta,
người đứng đầu một tổng gọi là bồ đình.

Ở các bộ có các Lạc tướng đứng đầu, cha truyền con nối gọi là phụ đạo. Lạc tướng vốn là
các tù trưởng bộ lạc chuyển hoá mà thành. Họ có các trưởng tá và đội thân binh giúp việc
cai quản và bảo vệ.

Trên hết là bộ máy trung ương do Hùng Vương đứng đầu và các Lạc hầu giúp việc cùng
đội thân binh làm nhiệm vụ bảo vệ. Danh hiệu Hùng có lẽ là một từ Hán phiên âm một từ
Việt cổ có âm nghĩa gần với những từ như Kun, Thun của người Mường, người Thái chỉ
người tù trưởng, thủ lĩnh đứng đầu một mường lớn.

Tính chất của lực lượng vũ trang cũng là một đặc điểm quan trọng để xem xét quá trình
và mức độ hình thành hay hoàn chỉnh của một nhà nước. Vấn đề này sẽ được đề cập cụ
thể trong chương sau. Ở đây chỉ xin nhấn mạnh rằng qua phân tích các nguồn tư liệu
khảo cổ học cho thấy lúc này đã hình thành một lực lượng vũ trang chuyên với tổ chức và
trang bị tương ứng cùng với tổ chức dân binh tạo thành sức mạnh vũ trang toàn dân được
manh nha, có những tiền đề để tiếp tục phát triển và hoàn thiện ở các thời kỳ lịch sử tiếp
theo.
Những dấu hiệu khác của nhà nước như luật pháp, thuế khoá . . . hiện chưa được tài liệu
khảo cổ soi sáng.

Tuy nhiên, các hiện tượng đó cũng được gợi ra, được ghi lại trong thư tịch nói về việc Mã
Viện tâu lên vua Hán về những điều khác biệt của luật người Việt so với luật người Hán,
nói về hiện tượng Lạc hầu “ăn ruộng” hẳn muốn nói dện các lạc hầu được hưởng bổng
lộc của vua Hùng qua việc thu lợi từ nguồn ruộng đất được cấp phát.

Từ những tài liệu vừa được trình bày ở trên cho thấy, xã hội Việt cổ mà văn hoá Đông
Sơn phản ánh và được đánh dấu trong tâm khảm của nhân dân qua các truyền thuyết, các
huyền thoại về thời dựng nước hay được le lói ít nhiều trong các đoạn thư tịch cổ, xã hội
đó đã trải qua một thời kỳ quá độ kéo dài ngót một thiên niên kỷ mà trên quãng đường
dẫn tới văn minh hình thái nhà nước ở chặng đầu và chặng cuối bộ mặt xã hội Đông Sơn
này không giống nhau, có chuyển hoá tiệm tiến và có chất biến.


Những dấu hiệu, những đặc điểm của thời kỳ quá độ này được các nhà kinh điển chủ
nghĩa Mác phân tích một cách toàn diện theo một lô gích biện chứng chặt chẽ và phương
pháp lịch sử xít xao, có thể hiểu như những hiện tượng phổ biến hay những đặc thù riêng
của mỗi xã hội khi bước vào văn minh.

Gần đây khi nghiên cứu lịch sử cổ đại các nước ở khu vực Đông Nam Á, một số học giả
nước ngoài (Tong En gheng 1992, C.Higham 1989 ) cũng chú ý tới những đặc thù
phương Đông, đã có công bóc tách và khái quát những đặc thù đó thành nội hàm của một
giai đoạn phát triển của lịch sử nhân loại - một thời kỳ quá độ riêng biệt nằm giữa xã hội
không giai cấp và xã hội có giai cấp. Tổ chức xã hội đó được gắn với một khái niệm,
được gọi bằng một cái tên Chiefdom mà qua tiếng Việt có thể tạm gọi là tù trưởng quốc
hay thủ lĩnh quốc.
Đối chiếu với những tiêu chuẩn chung của xã hội dạng này như: lao động công ích, phân
hoá xã hội thành giàu nghèo, sang hèn, thương mại, chiến tranh có thể dễ dàng nhận ra
xã hội thời Hùng Vương - An Dương Vương, nói cách khác khi xã hội Đông Sơn này
mang đầy đủ những đặc trưng cư bản của xã hội thủ lĩnh quốc, song có những đặc điểm
khiến nó cuối cùng không còn dừng lại ở mức phát triển này nữa.
Nhìn một cách khái quát, những nét tù trưởng quốc của xã hội Đông Sơn được thể hiện:
Về mặt kinh tê. Đã có những chuyên hoá nhất định trong các ngành sản xuất cư bản và
quan trọng. Hoạt động thương mại không còn là trao đổi ngẫu nhiên mà đã được kích
thích bởi quan hệ thị trường. Đơn vị sản xuất cư sở là các gia đình nhỏ, song đã có những
liên kết tự nhiên và tất yếu giữa các gia đình và các công xã thông qua các tổ chức quản
lý của xã hội để tiến hành các hoạt động công ích, phục vụ nhu cầu chung.
Về mặt xã hội: Quan hệ thân tộc vẫn ở vị trí trội vượt bên cạnh quan hệ láng giềng. Xung
đột và chiến tranh đã trở nên thường xuyên hơn và không còn chỉ là do hằn thù hay do vi
phạm những điều cấm kỵ, vi phạm những tập tục của nhau mà nguyên nhân chính được
tìm ở các động cư kinh tế - xã hội chi phối.
Về mặt chính trị: (tức bộ máy quản trị xã hội) đã bỏ xa cái tổ chức được điều hành bởi
thủ lĩnh và hội đồng già làng với tổ chức dân binh khi có biến mà xã hội đã được vận

hành bởi một tổ chức mà ở đó người thủ lĩnh cai trị không chỉ bằng uy tín và tài năng mà
còn bằng uy quyền áp đặt cưỡng chế và thông qua các cá nhân thân tộc được liên kết theo
thứ bậc và quyền hạn của mình cũng như thông qua tổ chức thân binh như lực lượng bảo
vệ các nhóm quý tộc này.
Tuy nhiên ở nửa sau của sự phát triển văn hoá Đông Sơn, xã hội đã vượt qua khuôn khổ
của xã hội tù trưởng quốc do có những sự biến tạo ra tình thế mới dẫn đến những kết cục
mới, đưa xã hội Đông Sơn vượt qua giai đoạn quá độ tất yếu để bước vào xã hội giai cấp
với những đặc điểm riêng của mình.
Quá trình hình thành và phát triển nhà nước cổ đại của người Việt được sơ đồ hoá như
sau (xem bảng 5).


×