Tải bản đầy đủ (.pdf) (8 trang)

Ấn chương Việt Nam - Ấn chương thời Tần - Hán ppsx

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (225.2 KB, 8 trang )

Ấn chương Việt Nam - Ấn chương thời Tần - Hán

Sau khi Tần Thủy Hoàng thống nhất Trung Quốc xây
dựng quốc gia trung ương tập quyền, xây dựng cải
cách chế độ trên nhiều lĩnh vực trong đó có quy định
về việc chế tác và sử dụng ấn chương. Quy định ấn
chương của Hoàng đế sử dụng là phải lấy ngọc thạch
của nước Sở để điêu khắc và phải gọi là Tỷ (璽),
quan lại và người bình thường dùng ấn thì gọi là ấn
(印) và Chương (章), còn đặt ra loại “phù tiết hợp
thừa” dùng cho cơ cấu chuyên môn, thực thi chế độ
giám quản ấn tỷ, cấm việc lạm dụng chế tác ấn
chương không theo quy định.

Ngọc Tỷ của Hoàng đế từ giai đoạn này được coi là
báu vật của quốc gia và tượng trưng cho hoàng
quyền, việc sử dụng và quản lý giữ gìn Ngọc Tỷ được
thực hiện theo quy chế nghiêm cẩn, mất Ngọc Tỷ tức
là đã tượng trưng của việc mất nước.

Thời Tần, ấn chương của quan viên và trăm họ về
hình thể cũng tương tự như ấn chương thời Chiến
Quốc, nhưng chủ yếu dùng nguyên liệu bằng đồng để
đúc, núm ấn thường làm đơn giản. Tư ấn được tạo tác
tinh mỹ cẩn thận hơn, núm ấn thường làm theo hình
thú vật.






Khi Tần Thủy Hoàng lên ngôi Hoàng đế đã sai quan
Lý Tư chế định ra chữ Tiểu Triện trên cơ sở chữ Đại
Triện có quy chỉnh và giản hóa hơn. Hình chữ Tiểu
Triện thường khuôn theo hình vuông, kiểu chữ điền
(田) nét chữ linh hoạt, đẹp đẽ hơn, tuy khuôn vuông
nhưng vẫn thể hiện nét mềm mại uyển chuyển. Chữ
Tiểu Triện gần như 100% được dùng làm thể chữ
khắc trên các loại Tỷ, ấn, chương và danh từ ấn triện
xuất hiện từ đây để chỉ tất cả các loại ấn khác nhau có
khắc chữ Triện. Danh từ này tồn tại đến ngày nay và
truyền sang các nước khu vực qua giao lưu văn hóa
trong đó có cả Việt Nam. (H.3 & 4)

Sang thời Hán, xã hội Trung Quốc phát triển trên các
lĩnh vực, mọi điển chương chế độ được thực thi cơ
bản theo điển chương chế độ thời Tần. Văn hóa nghệ
thuật phát triển mạnh, xuất phát từ thực tế công tác
chữ Lệ thư ra đời do sự sáng tạo của một số thư lại
trong các nha môn ở trung ương cộng với một số học
giả quan lại, Lệ thư chính thức nhập vào rừng nghệ
thuật thư pháp Trung Quốc.

Ấn chương thời Hán sơ có đặc điểm quy chế hình
thức giống như thời Tần, giai đoạn này sự phát triển
hưng thịnh của ấn chương có những điểm cũng gần
như thư pháp, tuy nhiên nó vẫn mang nét đặc thù
riêng biệt của thể loại ấn chương. Mặc dù chữ Lệ đã
ra đời nhưng trong ấn chương vẫn dùng chữ Triện
làm thể chữ khắc trên ấn, chỉ có một ít ấn được khắc
kiểu Triện - Lệ theo phong cách thư pháp, chủ yếu

dùng trong giới nghệ thuật thư pháp mà không sử
dụng trong công tác hành chính.

Ấn chương thời Hán phần lớn được tạo đúc kiểu
“Bạch văn” (白文) tức là khắc hoặc làm khuôn mà
khi đóng dấu thì sẽ cho ra đời một hình dấu có nền
màu mực và nét chữ sẽ là những nét trắng nên gọi là
“Bạch văn”.

Phong cách văn tự trên ấn chương rất phong phú, chủ
yếu và đặc sắc là những kiểu dáng “vuông vức ngay
thẳng”, “đoan trang đầy đặn”. Thể văn khắc trên ấn
chương rất sinh động với đường nét cong khuôn vòng
vừa phải, nét đậm không to quá, nét nhỏ không mảnh
quá, chỗ mau chỗ thưa nhưng vẫn giữ được sự cân
đối hài hòa, bố cục tự nhiên nhưng vẫn theo quy tắc
nhất định.

Hình thức ấn chương thời Hán rất đa dạng với nhiều
dạng kiểu hình vuông, tròn, chữ nhật. Núm ấn được
làm theo hình thú vật mà chủ yếu là con thú trong tôn
giáo tín ngưỡng Trung Quốc như thanh long, bạch
hổ, huyền vũ, chu tước và đồ hình tứ linh long, ly,
quy phượng. Ngoài ra núm ấn cũng được khắc chạm
một số loại thú khác như sư tử, lạc đà, ngựa, chim
v.v… nó biểu tượng sự tốt đẹp hùng tráng với nhiều
động tác cách điệu sinh động, nó khẳng định sự sáng
tạo của các nghệ nhân khắc ấn thời Hán.

Bút họa khắc ấn văn ngoài thể chữ Triện và Triện -

Lệ, các nghệ thuật gia thời Hán đã biến hóa cách điệu
thành hình các muông thú khác như loài chim, loài
cá, loài trùng hình thành phong cách “Điểu trùng thư
ấn”.

Văn khắc trên ấn ngoài những đặc điểm cơ bản như
trên người ta thường dùng những câu cát ngữ như
“Lợi nhật”, “Xuất nhập đại cát”, “Nhật hữu thiên
vạn” v.v…



Điển hình ấn chương thời Hán vẫn là Ngọc Tỷ của
Hoàng đế, khi Hán Cao Tổ Lưu Bang diệt Tần tiến
quân vào Hàm Dương, vua Tần phải buộc dây Ngọc
Tỷ truyền đời vào cổ dâng quốc gia cho Lưu Bang và
Lưu Bang đã phong ngọc tỷ đó là Truyền quốc tỷ.
Thời Hán còn làm thêm một số ngọc tỷ khác dùng
với ý nghĩa quốc gia trọng đại đó là Hoàng đế hành
tỷ, Hoàng đế tín tỷ, Thiên tử hành tỷ, Thiên tử tín tỷ,
v.v… thường gọi là “Lục tỷ”. Các ngọc tỷ này đều
được làm rất công phu có núm hình rồng, hổ, hoa văn
chạm khắc tinh xảo và văn khắc đều dùng thể chữ
Tiểu Triện. Ấn chương thời Hán đã khẳng định sự
phát triển đi lên và chiếm vị trí huy hoàng trong
truyền thống lịch sử văn hóa nghệ thuật Trung Quốc.
Ngày nay người Trung Quốc vẫn còn lưu giữ được
một số ấn chương giai đoạn này. (H.5 & 6).

×