Thời Hồng Bàng
Một số sử liệu cho rằng vào đầu thời kỳ Hồng Bàng, bộ tộc Việt có lãnh thổ rộng lớn từ phía nam
sông Dương Tử (Trung Quốc) đến vùng Thanh Hóa.
Văn Lang
Nhà nước Văn Lang của bộ tộc Lạc Việt hình thành trên vùng đồng bằng sông Hồng, đồng bằng sông
Mã và đồng bằng Sông Lam.
] Âu Lạc
Thục Phán sau khi chiếm được Văn Lang đã sát nhập vào đất của mình, nước Âu Lạc có lãnh thổ từ
phía nam sông Tả Giang (Quảng Tây-Trung Quốc) kéo xuống dãy Hoành Sơn (Hà Tĩnh)
Thời Bắc thuộc
Lãnh thổ của dân tộc Việt thời kỳ này, trong sự cai quản của chính quyền trung ương các triều đại
Trung Hoa, tiến về phía nam đến vùng Hà Tĩnh hiện nay, thỉnh thoảng các quan cai trị Giao Chỉ (hoặc
Giao Châu) tiến xuống phía nam đánh Chiêm Thành và đưa thêm vùng đất từ đèo Ngang đến đèo Hải
Vân vào cai trị nhưng không giữ được lâu vì sau đó Chiêm Thành thường lấy lại được. Ranh giới
lãnh thổ về phía nam đôi khi được nhắc trong sử liệu là một cột mốc bằng đồng dựng lên bởi Mã
Viện sau khi chinh phạt sự nổi dậy của Hai Bà Trưng, còn gọi là cột đồng Mã Viện.
Thời phong kiến tự chủ
Lãnh thổ Đại Việt khoảng năm 1010 dưới thời nhà Lý
Sau khi Ngô Quyền đánh bại nhà Nam Hán vào năm 938, đưa Việt Nam (Đại Cồ Việt, sau là Đại
Việt) vào kỷ nguyên độc lập, lãnh thổ Việt Nam bao gồm khu vực Bắc Bộ và 3 tỉnh Thanh Hóa, Nghệ
An, Hà Tĩnh. Tương đương với lãnh thổ cũ nước Văn Lang của các vua Hùng
Sát nhập Tây-Bắc
Năm 1014, tướng nước Đại Lý là Đoàn Kính Chí đem quân vào chiếm đóng châu Vị Long (nay là
huyện Chiêm Hóa - Tuyên Quang) và châu Đô Kim (nay là huyện Hàm Yên - Tuyên Quang), vua Lý
Thái Tổ sai con là Dực Thánh Vương đi đánh dẹp, quân Đại Lý đại bại, nhân cơ hội đó nhà Lý sát
nhập luôn khu vực ngày nay là Hà Giang vào Đại Việt.
Năm 1159, nhân khi nước Đại Lý suy yếu, vua Lý Anh Tông và Tô Hiến Thành đã tiến hành thu phục
vùng đất của các tù trưởng dân tộc thiểu số người Bạch ở bắc Yên Bái, nam Lào Cai vào lãnh thổ Đại
Việt.
Năm 1478, vua Lê Thánh Tông, sau khi thu phục tiểu vương quốc Bồn Man của người Thái đã sát
nhập vùng Sơn La, các huyện phía tây Thanh Hóa, Nghệ An ngày nay vào đất Đại Việt.
Năm 1885, Pháp (khi đó đang xâm lược Việt Nam) đã gây chiến với nhà Thanh tranh dành ảnh
hưởng ở miền bắc Việt Nam và giành được chiến thắng. Công ước Pháp-Thanh 1885 đã đưa về vùng
đất Lai Châu, Điện Biên, bắc Lào Cai ngày nay thuộc về xứ Bắc kỳ.
Qúa trình Nam tiến
Bài chi tiết: Nam tiến
Các triều đại phong kiến của Việt Nam liên tục mở rộng lãnh thổ xuống phía Nam.
• Nhà Lý
Năm 1069, Lý Thánh Tông nam chinh đánh Chiêm Thành và bắt được vua Chiêm về Thăng Long.
Để được tha vua Chiêm đã dâng vùng đất phía bắc Chiêm Thành là tỉnh Quảng Bình và bắc Quảng
Trị ngày nay cho Đại Việt.
• Nhà Trần
Năm 1306 vua Chế Mân của Chiêm Thành cắt đất vùng Thừa Thiên-Huế và nam Quảng Trị ngày nay
cho vua Trần Anh Tông để làm sính lể cưới công chúa Huyền Trân của Đại Việt, biên giới phía nam
của Đại Việt tiến đến đèo Hải Vân.
• Nhà Hậu Lê
Năm 1471 vua Lê Thánh Tông đưa 20 vạn quân tiến đánh vào kinh đô Đồ Bàn (Bình Định) của
Chiêm Thành, kinh đô Đồ Bàn sụp đổ. Lê Thánh Tông đã sát nhập vùng đất bắc Chiêm Thành vào
Đại Việt (ngày nay là 3 tỉnh Quảng Nam, Quảng Ngãi, Bình Định). Phần đất còn lại của Chiêm
Thành vua Lê Thánh Tông đã chia làm 3 vương quốc và giao cho tướng, hoàng thân còn lại của
Chiêm Thành trấn giữ và có nghĩa vụ triều cống Đại Việt. Đến năm 1471 lãnh thỗ phía nam của Đại
Việt tiến đến đèo Cù Mông (bắc Phú Yên ngày nay).
• Chúa Nguyễn (Đàng Trong)
Thời kỳ Trịnh, Nguyễn phân tranh Do áp lực tấn công của các chúa Trịnh ở Đàng Ngoài và nhu cầu
đất đai, các chúa Nguyễn đã tiến hành những đợt nam tiến, mở rộng lãnh thổ Đại Việt chưa từng
thấy.
• Năm 1611, Nguyễn Hoàng tiến chiếm vùng đất của Chiêm Thành mà ngày nay là Phú Yên
• Năm 1655, Nguyễn Phúc Tần tiến chiếm vùng Khánh Hòa của Chiêm Thành
• Năm 1693, Nguyễn Hữu Cảnh tiến chiếm và chính thức sát nhập phần còn lại của vương quốc
Chiêm Thành là Bình Thuận, Ninh Thuận
• Năm 1698, Nguyễn Hữu Cảnh vào Sài Gòn lập dinh, chia trấn, bổ nhiệm quan lại chính thức
đưa khu vực các tỉnh miền Đông Nam Bộ của Chân Lạp vào lãnh thổ Đàng Trong.
• Năm 1718, Mạc Cửu (thương nhân người Hoa) người khai phá vùng đất Hà Tiên, Kiên Giang
(của Chân Lạp) xin nội thuộc chúa Nguyễn, chúa Nguyễn phong chức Tổng binh cai quản
• Từ năm 1736-1739, Mạc Thiên Tứ (con Mạc Cửu) khai phá thêm vùng đất Cà Mau, Bạc Liêu,
Sóc Trăng (của Chân Lạp) đưa vào lãnh thổ Đàng Trong.
• Từ năm 1732-1757, do nhu cầu được các chúa Nguyễn hỗ trợ lên ngôi và bảo vệ trước Xiêm
La, lần lượt các vua của Chân Lạp đã dâng từng phần vùng đất còn lại ở đồng bằng sông Cửu
Long cho các chúa Nguyễn.
• Nhà Nguyễn : Năm 1830, Minh Mạng sát nhập vùng Tây Nguyên vào lãnh thổ Việt Nam.
Thời Pháp đô hộ
Thực dân Pháp thành lập Liên bang Đông Dương bao gồm:
• Bắc kỳ (Tonkin), từ Ninh Bình trở ra
• Trung kỳ (Annam), từ Thanh Hóa vào tới Bình Thuận
• Nam kỳ (Cochinchine), từ Đồng Nai tới Cà Mau
• Lào (Laos)
• Cao Miên (Cambodge)
Chiến tranh Việt Nam
Từ 1954 đến 1975, Việt Nam bị chia đôi tại vĩ tuyến 17:
• Miền Bắc là Việt Nam Dân chủ Cộng hòa
• Miền Nam là Việt Nam Cộng hòa
Việt Nam ngày nay
Việt Nam ngày nay
Lãnh thổ Việt Nam ngày nay có hình chữ S chạy dài theo hướng Đông Nam của bán đảo Đông
Dương, từ Hà Giang tới Cà Mau.
• Diện tích khoảng 331.690 km²
• Khoảng cách từ bắc tới nam là khoảng 1.650 km
• Đường bờ biển dài 3.260 km
Lãnh hải rộng lớn (Việt Nam tuyên bố 12 hải lý ranh giới lãnh hải, thêm 12 hải lý tiếp giáp nữa theo
thông lệ và vùng an ninh, và 200 hải lý làm vùng đặc quyền kinh tế). Hai quần đảo lớn là Trường Sa,
Hoàng Sa. Đảo lớn nhất là Phú Quốc và rất nhiều các hòn đảo nhỏ khác.
Quần đảo Hoàng Sa
Việt Nam tuyên bố chủ quyền đối với Quần đảo Hoàng Sa, nhưng Hoàng Sa nay đang nằm dưới sự
quản lý của Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa từ sau Hải chiến Hoàng Sa, 1974.
Quần đảo Trường Sa
Hiện Quần đảo Trường Sa đang bị rất nhiều quốc gia trong khu vực tranh chấp do có tiềm năng lớn
về dầu khí và nguồn cá dồi dào. Việt Nam là quốc gia nắm giữ nhiều đảo nhất. Các quốc gia đang
tranh chấp chủ quyền gồm: Việt Nam, Trung Quốc, Đài Loan, Philippines, Malaysia, Brunei.