Tải bản đầy đủ (.pdf) (19 trang)

Trưởng thành noãn trong ống nghiệm (IVM) ppt

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (199.96 KB, 19 trang )

Trưởng thành noãn trong ống nghiệm (IVM)

Tóm tắt
Trưởng thành noãn trong ống nghiệm (IVM) đã được chứng minh là có hiệu quả,
an toàn và tiết kiệm chi phí cho các bệnh nhân vô sinh có hội chứng buồng trứng
đa nang (BTĐN). Quan điểm điều trị trong thụ tinh trong ống nghiệm đã có nhiều
thay đổi, trong đó, xu hướng kích thích buồng trứng (KTBT) nhẹ đang thu hút sự
quan tâm của các nhà khoa học. Bên cạnh đó, các tiến bộ trong khâu xử lý và
trưởng thành noãn in vitro đã dẫn đến việc áp dụng IVM cho các đối tượng vô sinh
không có hội chứng BTĐN trong khoảng vài năm gần đây. Bài viết này đề cập đến
IVM cho các đối tượng như đáp ứng kém, nguy cơ quá kích sau khi tiêm thuốc
KTBT hay các nhóm bệnh vô sinh có dự trữ buồng trứng bình thường… Việc ứng
dụng IVM trong tình hình Việt nam cũng được tác giả đề cập.
Từ khóa: trưởng thành noãn trong ống nghiệm, buồng trứng đa nang, đáp ứng
kém, quá kích buồng trứng, dự trữ buồng trứng
IN VITRO MATURATION (IVM) FOR INFERTILITY TREATMENT
IN NON-PCO PATIENTS
Abstract
In vitro maturation (IVM) has been claimed to be a safe, effective and cost saving
method for infertilitiy treatment in PCOS patients. Recently, mild stimulation has
been proposed as a new approach for controlled ovarian stimulation, in order to
make IVF/ET more friendly. These changes have made IVM possible for patients
other than PCOS. This review aimed to introduce the new application of IVM for
infertility treatment in poor responders, over responders as well as patients with
normal ovaries. The application of IVM in Vietnam has also been mentioned.
Keywords: IVM, PCOS, over responders, poor responders, normal ovaries.
Trưởng thành noãn trong ống nghiệm (in vitro maturation-IVM) là một kỹ thuật
trong đó noãn được chọc hút ở giai đoạn chưa trưởng thành (GV), và được nuôi
cấy trong các môi trường chuyên biệt cho đến khi trưởng thành (MII). Các giai
đoạn tiếp sau đó như tạo phôi, nuôi cấy phôi diễn ra như một chu kỳ TTTON
thông thường. Về cơ bản, kỹ thuật này can thiệp vào khâu đầu tiên của qui trình,


đó là thu được noãn để làm TTTON. Trước nay, để thu được noãn, người ta phải
sử dụng rất nhiều nội tiết tố để tiêm cho người phụ nữ trong thời gian dài (thường
là 4 tuần) để giúp các nang noãn phát triển. Phác đồ kích thích buồng trứng
(KTBT) này là nguyên nhân dẫn đến các nhược điểm chính của TTTON. Do đó,
thay vì phải tiêm thật nhiều thuốc vào cơ thể người phụ nữ để giúp noãn phát triển
và trưởng thành, người ta lấy các noãn từ các nang nhỏ ở buồng trứng và nuôi cấy
đến giai đoạn trưởng thành trong môi trường in vivo. Như vậy, trong kỹ thuật
IVM, KTBT là hoàn toàn không cần thiết hay chỉ cần kích thích “mồi” (priming)
với liều thấp và trong thời gian ngắn. Do đó, nguy cơ quá kích buồng trứng
(QKBT) hoàn toàn không xảy ra.
Trường hợp IVM đầu tiên được báo cáo trên thế giới là vào năm 1991 (Cha et al,
1993). Tuy nhiên, IVM chỉ thật sự được phát triển mạnh và được xem là hướng
phát triển tương lai của TTTON trong khoảng thời gian gần đây, khi có sự tiến bộ
đáng kể trong các khâu kỹ thuật lâm sàng cũng như môi trường labo (Barnes,
2007). Cha đẻ của TTTON thế giới, Robert Edwards, cho rằng hai xu hướng điều
trị có thể thay đổi cách tiếp cận bệnh nhân vô sinh trong tương lai sẽ là kích thích
buồng trứng nhẹ với gonadotropins ngoại sinh (mild stimulation) và trưởng thành
noãn trong ống nghiệm (Edward, 2007a, 2007b). IVM hiện đã được áp dụng rộng
rãi tại nhiều nước trên thế giới, đặc biệt mạnh ở các nước như Canada, Hàn Quốc,
Nhật, Mỹ và các nước Bắc Âu. Số trẻ sinh ra từ kỹ thuật IVM trên thế giới tính
đến cuối năm 2008 là trên 1000 bé (Chian, số liệu chưa công bố). Kết quả của
những nghiên cứu gần đây đều cho thấy không có sự khác biệt về cân nặng lúc
sanh, sự phát triển tâm thần, thể chất và vận động của nhóm trẻ sinh ra từ kỹ thuật
IVM so với nhóm trẻ sinh ra từ các chu kỳ TTTON và tự nhiên (Mikkelsen et al,
2003; Buckett et al, 2004; Cha et al, 2005).
Mối liên quan mật thiết giữa tỷ lệ thành công của một chu kỳ TTTON và số trứng
chọc hút đã được đề cập (Child et al., 2001). Trong khi đó, số trứng thu được từ
IVM thường thấp hơn so với TTTON thường quy (Edwards, 2007a). Đây chính là
lý do mà hiện nay, hầu hết các trung tâm TTTON đều tập trung triển khai IVM
trên nhóm bệnh nhân có nguy cơ cao QKBT hay những bệnh nhân có chống chỉ

định với KTBT (Cha et al., 2000, 2005; Child et al., 2001; Mikkelsen and
Lindenberg, 2001; Jurema and Noigueira, 2006). Trong một phân tích gộp vào
năm 2009 (meta analysis), số liệu từ các nghiên cứu so sánh (không phân nhóm
ngẫu nhiên) giữa IVM và TTTON thường quy, các báo cáo loạt ca hay từ các
nghiên cứu RCT so sánh các phác đồ thực hiện IVM khác nhau đều cho thấy IVM
là một kỹ thuật điều trị có tính khả thi cao cho bệnh nhân vô sinh với hội chứng
BTĐN (Siristatidis et al, 2009).
Trong khoảng 5 năm trở lại đây, TTTON đã chứng kiến nhiều thay đổi trong quan
điểm điều trị cũng như có nhiều bước cải tiến trong kỹ thuật. Trong số đó, khái
niệm “kích thích nhẹ” (mild stimulation) đang dần trở nên phổ biến và là một
hướng tiếp cận trong tương lai (Edwards, 2007a). Khái niệm này, cùng với các
tiến bộ trong kỹ thuật nuôi cấy phôi đã làm cho phong trào thực hiện IVM cho
những đối tượng khác, thường có ít noãn hơn so với BTĐN, ngày càng được quan
tâm. Bài viết này sẽ đề cập đến việc ứng dụng IVM trong điều trị vô sinh trên các
đối tượng không phải BTĐN.
IVM cho các đối tượng đáp ứng kém
Đáp ứng kém là tình trạng buồng trứng đáp ứng không như mong đợi với thuốc
KTBT. Tiêu chuẩn chẩn đoán đáp ứng kém còn chưa được thống nhất, nhưng nhìn
chung, đáp ứng kém được xác định dựa vào một hay nhiều yếu tố như số nang
noãn trưởng thành trên siêu âm (thay đổi từ dưới 2 đến dưới 5 nang), nồng độ đỉnh
của estradiol (thay đổi từ 100 đến 660 pg/mL), số noãn trưởng thành thu nhận
được (ít hơn 3 hay ít hơn 6 noãn), tổng liều FSH sử dụng hay tổng thời gian sử
dụng FSH (Surrey, 2000). Ngoài ra, các yếu tố khác cần cân nhắc như lớn tuổi
(trên 40 tuổi), nồng độ FSH cơ bản và quan trọng nhất là số nang thứ cấp đầu chu
kỳ. Đáp ứng kém với KTBT được ghi nhận xuất hiện với tần suất 9-24% (Kyrou et
al, 2009).
Nhiều phác đồ KTBT cũng như nhiều cách tiếp cận đã được đề cập như sử dụng
liều cao FSH, phối hợp FSH/LH, sử dụng GnRH agonist (phác đồ ngắn), GnRH
antagonist, kích thích nhẹ, bổ sung GH… nhưng hiệu quả vẫn còn đang tranh cãi,
và nhìn chung, đều phải sử dụng thuốc KTBT với liều cao thấp khác nhau tùy cách

tiếp cận (Kyrou et al, 2009). Trong một nghiên cứu gộp mới nhất vào năm 2010,
các tác giả kết luận rằng hiện chưa có bằng chứng cho thấy hiệu quả vượt trội của
bất kỳ biện pháp can thiệp nào cho các đối tượng đáp ứng kém (Pandian et al,
2010).
Trong bối cảnh chưa có một hướng tiếp cận nào được chứng minh hiệu quả vượt
trội, và ít nhiều đều phải tốn chi phí cho việc sử dụng thuốc KTBT, IVM có thể
được xem là một hướng tiếp cận mới, khi việc sử dụng FSH ở mức tối thiểu hay
hoàn toàn không cần thiết. Trường hợp thành công đầu tiên được báo cáo bởi Liu
et al năm 2003. Trong báo cáo loạt ca này, có 8 bệnh nhân không có nang noãn
trưởng thành sau 15 ngày sử dụng FSH (300IU) phối hợp 150 IU hMG. Thay vì
hủy chu kỳ, bệnh nhân được tiến hành làm IVM, 03 trường hợp có thai được ghi
nhận (Liu et al, 2003). Kết quả khả quan này được lập lại trong hai báo cáo tại một
trung tâm ở Trung quốc (trên 19 bệnh nhân) và tại Hàn quốc trên 55 bệnh nhân.
Tỷ lệ thai lâm sàng đạt được là 31,6 - 40,4% (Liu et al, 2007). Các số liệu này cho
thấy IVM có thể là một biện pháp điều trị thay thế có tính khả thi cao cho những
trường hợp đáp ứng kém với KTBT, thay vì phải hủy chu kỳ.
IVM cho những trường hợp đáp ứng quá mức với KTBT (rescued IVM)
Sử dụng FSH ngoại sinh là một trong những bước quan trọng của TTTON. Hậu
quả có thể là sự xuất hiện của hội chứng QKBT. Trong các chu kỳ TTTON, tỉ lệ
QKBT xảy ra khoảng từ 5 – 10% với QKBT nặng cần nhập viện từ 2 – 3%
(Buckett et al, 2005). Dự phòng QKBT là một vấn đề cần được quan tâm trong
quá trình KTBT. Dự phòng chủ động được ưu tiên hàng đầu với các biện pháp có
thể thực hiện như (1) sử dụng liều FSH khởi đầu thích hợp (2) theo dõi và điều
chỉnh liều FSH tùy theo đáp ứng buồng trứng. Tuy nhiên, rất khó tiên đoán chính
xác sự đáp ứng của buồng trứng với thuốc. Do đó, đã có ý kiến cho rằng cách duy
nhất để QKBT không xuất hiện là không sử dụng gonadotropins để KTBT
(Buckett et al, 2005).
Trong một tổng quan gần đây nhất về dự phòng QKBT, các biện pháp dự phòng
cấp 1 được đề cập bao gồm (1) giảm liều và thời gian sử dụng FSH, (2) sử dụng
GnRH antagonist và (3) không sử dụng hCG cho hỗ trợ hoàng thể. Các biện pháp

dự phòng cấp độ 2 bao gồm (1) ngưng sử dụng FSH (coasting), (2) giảm liều hCG
để kích thích trưởng thành noãn, (3) đông lạnh phôi toàn bộ và (4) hủy chu kỳ
(Humaidan et al, 2010). Tuy nhiên, hầu hết hiệu quả dự phòng QKBT của các biện
pháp nêu trên còn nhiều tranh cãi hoặc số liệu chưa đủ lớn (Humaidan et al, 2010).
Ngoài ra, một số biện pháp có thể ảnh hưởng đến kết quả có thai hay tạo ra sức ép
tâm lý cho bệnh nhân khi phải hủy chu kỳ hay việc chuyển phôi bị trì hoãn.
Các ghi nhận gần đây cho thấy có thể thu nhận noãn giai đoạn MII từ các nang có
kích thước 12-14mm trên phụ nữ vô sinh có hội chứng BTĐN sau khi sử dụng
hCG. Từ đó, các tác giả cho rằng có thể thu được noãn trưởng thành sau một thời
gian KTBT ngắn, và như vậy, có thể ngăn ngừa tình trạng QKBT nặng mà không
ảnh hưởng nhiều đến kết quả điều trị cuối cùng. Đây chính là cơ sở cho việc ứng
dụng IVM trên các đối tượng có nguy cơ QKBT trong thời gian chích thuốc làm
TTTON.
Trong một nghiên cứu thực hiện trên 123 chu kỳ có nguy cơ QKBT sau 5 ngày sử
dụng thuốc KTBT để làm TTTON, tác giả đã sử dụng 10.000IU hCG khi nang dẫn
đầu có kích thước 12-14 mm. Chọc hút noãn được tiến hành 36 tiếng sau đó (Lim
et al, 2007). Vào thời điểm chọc hút có 18,9% noãn trưởng thành. Các noãn giai
đoạn GV/MI được xử lý như trong các chu kỳ IVM bình thường. Tỷ lệ trưởng
thành sau thời gian nuôi cấy là 80,1%. Với số phôi chuyển trung bình là 4, tỷ lệ
thai lâm sàng đạt được là 36,6%. Điểm cần lưu ý là tỷ lệ có thai trong các chu kỳ
TTTON có nguy cơ QKBT nặng tại trung tâm của tác giả được báo cáo khoảng
10-15%.
Dựa trên kết quả này, các tác giả đề nghị chuyển IVM có thể là một hướng đi hiệu
quả trên những đối tượng nguy cơ QKBT nặng sau khi KTBT làm TTTON. Điểm
cần lưu ý trong phác đồ là ngay khi xác định có nguy cơ QKBT sau 5-6 ngày sử
dụng FSH (trên 20 nang phát triển ở hai buồng trứng, với kích thước > 10mm),
việc sử dụng FSH phải được ngưng ngay lập tức và sử dụng hCG ngay khi nang
dẫn đầu đạt kích thước 12-14mm (Lim et al, 2007).
IVM cho dự trữ buồng trứng bình thường
Một trong những lợi điểm của IVM là việc không sử dụng thuốc kích thích buồng

trứng, dẫn đến tiết kiệm thời gian và chi phí điều trị trực tiếp hay để giải quyết các
“tai biến” có thể xảy ra do KTBT (Jurema and Noigueira, 2006). Tuy nhiên, chính
lợi điểm này lại dẫn đến cơ hội thành công thấp với điều trị do số noãn thu được từ
IVM thường thấp hơn so với TTTON cổ điển (Edwards, 2007a). Một số tác giả đã
công bố các kết quả khá khả quan khi triển khai IVM trên các đối tượng có hoạt
động buồng trứng bình thường (Russell et al., 1997; Suikkari et al., 2000;
Mikkelsen et al., 2001; Child et al., 2001; Söderström-Anttila et al., 2005; Dal
Canto et al., 2006; Lim et al., 2007), tuy nhiên hiệu quả vẫn còn chưa được thống
nhất (Cha et al., 2005) và đa số đều công nhận IVM là một lựa chọn thích hợp cho
các phụ nữ vô sinh có BTĐN hay có chống chỉ định sử dụng thuốc KTBT
(Jurema and Noigueira, 2006).
Hiện nay, với xu hướng điều trị thân thiện cho bệnh nhân và nhiều cải tiến trong
phác đồ thực hiện, IVM dành cho các bệnh nhân vô sinh có buồng trứng bình
thường ngày càng được quan tâm. Trong một nghiên cứu thực hiện tại Ý trên 256
chu kỳ IVM cho các đối tượng có buồng trứng bình thường và không sử dụng
thuốc KTBT, tỷ lệ thai lâm sàng là 14,7% và tỷ lệ làm tổ là 8,5% (Fadini, 2009).
Đây là một kết quả khá khả quan, vì theo luật của Ý, không quá 3 trứng trưởng
thành được sử dụng. Đây được xem là nghiên cứu lớn nhất cho đến nay, thực hiện
trên đối tượng có buồng trứng hoạt động bình thường.
Kết quả thực hiện IVM để điều trị vô sinh cho các phụ nữ có hoạt động buồng
trứng bình thường có thể ảnh hưởng bởi một số đặc điểm sinh học của bệnh nhân
cũng như phác đồ thực hiện. Nghiên cứu cho thấy hiệu quả điều trị sẽ cao nhất khi
thực hiện cho phụ nữ < 37 tuổi và có BMI < 28. Số nang noãn thứ cấp đầu chu kỳ
(AFC) ít nhất là 5, nồng độ FSH cơ bản < 9 IU/ml và E2 < 200 pmol/l. Ngoài ra,
thời điểm chọc hút trứng cũng ảnh hưởng đến cơ hội thành công. Chọc hút nên
được tiến hành khi nang dẫn đầu có kích thước không quá 11mm và độ dày
NMTC phải đạt ít nhất 5mm vào lần siêu âm cuối cùng (Fadini, 2009).
IVM kết hợp IVF trong chu kỳ tự nhiên (IVF/M)
TTTON có thể được thực hiện trong các chu kỳ tự nhiên, hoàn toàn không sử dụng
các thuốc KTBT. Phương pháp này có nhiều lợi điểm như chi phí thấp, ít thời gian

và có thể thực hiện liên tục trong nhiều chu kỳ liên tiếp… Tuy nhiên, với cách
thực hiện này, có khoảng 16,7-71,4% chu kỳ chọc hút không có trứng, dẫn đến tỷ
lệ có thai thấp (0–12%) (Janssens et al, 2000). Người ta đã ghi nhận khả năng
trưởng thành, phát triển thành phôi cũng như thành thai của những noãn thu được
từ các nang còn nhỏ, mặc dù đã có sự hiện diện của nang trưởng thành. Trên quan
sát này, một hướng tiếp cận mới để nâng cao tỷ lệ thành công cho TTTON trong
chu kỳ tự nhiên là phối hợp làm IVM cho các noãn chưa trưởng thành trong đoàn
hệ các nang thứ cấp còn lại. Nếu noãn ở giai đoạn MII từ nang noãn trưởng thành
được chọc hút cùng các noãn chưa trưởng thành và kết hợp IVM thì số phôi được
hình thành sẽ nhiều hơn, do đó, cơ hội thành công cũng sẽ cao hơn. Kỹ thuật này
được gọi là IVF/M và ngày càng thu hút sự quan tâm của các nhà khoa học (Lim
et al, 2007; 2009).
Hiệu quả của IVF/M qua một số nghiên cứu cho thấy tính khả thi của kỹ thuật.
Trong một nghiên cứu thực hiện năm 2009 trên 410 chu kỳ TTTON, bệnh nhân
được chia làm 3 nhóm đối tượng, (1) bệnh nhân được thực hiện IVF/M, (2) thực
hiện IVM và (3) IVF thường quy. Kết quả cho thấy tỷ lệ thai lâm sàng giữa ba
nhóm bệnh nhân tương đương nhau, lần lượt là 40,4%, 41,3% và 37,8%. Tỷ lệ làm
tổ của phôi cũng không khác biệt ở ba nhóm. Kết quả nghiên cứu cho thấy IVF/M
cùng với IVM có thể giải quyết được trên 50% các trường hợp vô sinh với tỷ lệ
thai chấp nhận được (Lim et al, 2009).
Kỹ thuật IVF/M còn được chứng minh là có hiệu quả tương đương ở các nhóm đối
tượng bệnh lý khác nhau. Trong một nghiên cứu được thực hiện từ 4/2005 đến
2/2009 trên 329 chu kỳ, bệnh nhân được chia làm 5 nhóm với các chỉ định làm
TTTON khác nhau (1) tai vòi, (2) nguyên nhân do chồng, (3) tai vòi kết hợp tinh
trùng yếu, (4) chưa rõ nguyên nhân và (5) các nguyên nhân khác. Nhìn chung, tỷ
lệ thai lâm sàng đạt được là 35,9% (118/329). Không có sự khác biệt về tỷ lệ thai
lâm sàng và tỷ lệ trẻ sinh sống giữa các nhóm nguyên nhân khác nhau. Các số liệu
cho thấy IVF/M trong chu kỳ tự nhiên có thể được áp dụng cho các bệnh nhân với
những nguyên nhân vô sinh khác nhau (Yu et al, 2010).
Một số chỉ định khác

Tỷ lệ phụ nữ bị các bệnh lý ác tính có khuynh hướng ngày càng được phát hiện
sớm. Khoảng 2% phụ nữ dưới 40 tuổi được phát hiện các ung thư ở giai đoạn xâm
lấn, và ở nhóm phụ nữ dưới 60, con số này là 9% (Jemal et al, 2007). Có đến
khoảng 50% các phụ nữ này cần được điều trị bằng các hóa chất hay xạ trị, và như
vậy khả năng sinh sản sẽ bị ảnh hưởng. Bên cạnh đó, khả năng sống ngày càng gia
tăng do các cải thiện trong phác đồ điều trị. Điều này làm cho việc bảo tồn khả
năng sinh sản trở thành vấn đề quan trọng, nhất là ở người còn trẻ tuổi. Trong số
các biện pháp giúp duy trì khả năng sinh sản của những phụ nữ này, IVM được
cho là có một số ưu điểm như không cần sử dụng gonadotropins ngoại sinh (có thể
ảnh hưởng đến một số loại ung thư) và thời gian thực hiện ngắn, ít cản trở đến quá
trình điều trị ung thư (Demirtas, 2008).
Một hướng tiếp cận khác là IVM có thể thực hiện cho bệnh nhân thất bại nhiều lần
với TTTON thường quy có bất thường quá trình sinh noãn. Trong một nghiên cứu
pilot, 7 bệnh nhân thất bại với TTTON ít nhất 3 chu kỳ do bất thường quá trình
sinh noãn (hội chứng trứng trống, noãn không trưởng thành) được tiến hành làm
IVM (Hourvitz et al, 2010). Tỷ lệ noãn trưởng thành trong in vitro là 39,6% với tỷ
lệ thụ tinh là 45,8%. Có hai trường hợp có thai và sinh sống trong lô nghiên cứu
này.
Ứng dụng IVM tại Việt nam
Tại Việt Nam, kỹ thuật TTTON đã được triển khai thành công từ năm 1997, đến
tháng 5/2010, cả nước đã có 13 trung tâm TTTON được thành lập với số chu kỳ
điều trị khoảng 4000-4500/năm. Hội chứng BTĐN được ghi nhận ở khoảng 35%
bệnh nhân. Trước thực trạng đó, chúng tôi đã triển khai áp dụng kỹ thuật trưởng
thành noãn trong ống nghiệm tại Việt Nam từ năm 2006, và đã thành công ngay
trường hợp đầu tiên. Hai em bé đầu tiên của kỹ thuật IVM tại Việt Nam (sinh đôi)
ra đời vào ngày 2/5/2007. Theo Chian, đến cuối năm 2008, đã có trên 1000 trẻ
sinh ra từ IVM, trong đó, Việt nam đứng hàng thứ 5 trên thế giới và thứ 3 ở khu
vực châu Á. Số liệu sơ khởi về các chỉ số sản khoa của thai kỳ từ kỹ thuật IVM
cũng đã được chúng tôi báo cáo (HMTuong và VTNLan, 2009).
Cho đến tháng 3/2008, chúng tôi chỉ thực hiện IVM cho các trường hợp có chỉ

định TTTON mà người vợ có hình ảnh BTĐN trên siêu âm (Hồ Mạnh Tường và
cs, 2008; ĐQVinh và cs, 2009). Hiện nay, chúng tôi đã áp dụng IVM cho bệnh
nhân có nguy cơ QKBT sau KTBT làm TTTON thường quy (rescued IVM), với
tiêu chuẩn là bệnh nhân có trên 20 nang trên 2 buồng trứng, với kích thước không
quá 12mm khi siêu âm vào ngày 6-7 của KTBT. Trên 8 bệnh nhân được chuyển
IVM, có 4 bệnh nhân có thai và không có trường hợp QKBT nào được ghi nhận
(PHTuân và cs, 2010).
Ngoài ra, chúng tôi cũng bắt đầu triển khai IVM cho các đối tượng có dự trữ
buồng trứng bình thường từ đầu năm 2010. Đối tượng nghiên cứu là những phụ nữ
có chỉ định làm TTON do tai vòi, yếu tố nam hay thất bại với thụ tinh nhân tạo 3
chu kỳ và có các xét nghiệm dự trữ buồng trứng trong giới hạn bình thường.
Chúng tôi đã triển khai kỹ thuật này trên 10 bệnh nhân, với số trứng chọc hút
trung bình là 6,2 ± 2,5. Tỷ lệ trưởng thành và tỷ lệ thụ tinh lần lượt là 66% và
81,3% và thai lâm sàng được ghi nhận trong hai trường hợp (số liệu chưa báo cáo).
Tóm lại, sử dụng IVM để thay thế việc kích thích buồng trứng trong TTTON là
một tiến bộ lớn trong lãnh vực hỗ trợ sinh sản. Bên cạnh nhóm bệnh nhân có hội
chứng BTĐN, hiện có nhiều dữ liệu cho thấy IVM cũng có thể được xem là một
phương án lựa chọn phù hợp trong một số nhóm đối tượng khác. Mặc dù tỉ lệ
thành công nhìn chung hiện nay của IVM chưa thể so sánh với phác đồ TTTON có
kích thích buồng trứng, kỹ thuật IVM vẫn đặc biệt có ý nghĩa khi chi phí TTTON
vẫn còn khá cao so với thu nhập của đại đa số người Việt Nam.
Tài liệu tham khảo
Barnes FL (2007). The first step in the era of human in vitro oocyte maturation. In
Tan SL, Chian RC, Buckett WM (eds). In vitro maturation of human oocytes:
Basic science to clinical application. Informa Healthcare, UK, p231
Buckett W, Chian RC and Tan SL. Can we eliminate severe OHSS? Not
completely. Hum Reprod 2005,20:2367
Buckett WM, Chian RC, Barrington K et al. Obstetric, neonatal and infant
outcomes in babies conceived by IVM: initial 5-year results 1998-2003. Fertil
Steril, 2004;82 (Suppl 2):S133

Cha KY, Han SY, Chung HM, Choi DH, et al. Pregnancies and deliveries after in
vitro maturation culture followed by in vitro fertilization and embryo transfer
without stimulation in women with polycystic ovary syndrome. Fertility and
Sterility 2000;73(5): 978–83.
Cha KY, Chung HM, Lee DR et al. Obstetric outcome of patients with polycystic
ovary syndrome treated by in vitro maturation and in vitro fertilization–embryo
transfer. Fertil Steril, 2005;83:1461–5
Cha KY, Koo JJ, Ko JJ et al. Pregnancy after in vitro fertilization of human
follicular oocytes collected from non-stimulated cycles, their culture in vitro and
transfer in a donor program. Fertil Steril, 1991; 55: 109-13.
Child TJ, Abdul-Jalil AK, Gulekli B, Tan SL. In vitro maturation and fertilization
of oocytes from unstimulated normal ovaries, polycystic ovaries, and women with
polycystic ovary syndrome. Fertility and Sterility 2001;76(5):936–42.
Dal Canto MB, Mignini Renzini M, Brambillasca F et al. IVM–the first choice for
IVF in Italy. Reprod BioMed Online, 2006 13, 159–165.
Demirtas E. Immature oocyte retrieval in the luteal phase to preserve fertility in
cancer patients. Reprod BioMed Online, 2008, 17:520-523.
ĐQVinh, LTHKha, HMTuong và cs. Hiệu quả của kỹ thuật trưởng thành noãn non
trong ống nghiệm. Thời sự Y học, 2009,35(2):1-6.
Edwards RG. Are minimal stimulation IVF and IVM set to replace routine IVF?
Reprod BioMed Online 2007a;14:267–70.
Edwards RG. IVF, IVM, natural cycle IVF, minimal stimulation IVF–time
for a rethink. Reprod BioMed Online 2007b;15:106–19.
Fadini R. Predictive factors in in-vitro maturation in unstimulated women with
normal ovaries. Reprod BioMed Online, 2009, 18:251-261.
HMTuong, VTNLan, DQVinh et al. IVM in PCO/PCOS women. First European
Congress on In Vitro Maturation of Human Oocytes in Assisted Reproduction.
2008. Monza, Italy.
HM Tuong, VTN Lan. Obstetric outcomes of pregnancies from in-vitro maturation
of oocytes treatment. In “Reproductive Medicine and Surgery”. Eds. Jean-Benard

Dubuisson, Victor Gomel. Medimond 2009; 37-40.
Hourvitz A, Maman E, Brengauz M et al. In vitro maturation for patients with
repeated in vitro fertilization failure due to “oocyte maturation abnormalities”
Fertility and Sterility, 2010, in press.
Humaidan P, Quartarolo J and Papanikolaou EG. Preventing ovarian
hyperstimulation syndrome: guidance for the clinician. Fertil Steril, 2010, in press.
Janssens RM, Lambalk CB, Vermeiden JP, Schats R, Schoemaker J. In-vitro
fertilization in a spontaneous cycle: easy, cheap and realistic. Hum Reprod
2000;15:314–8.
Jemal A, Siegel R, Ward E, Murray T, Xu J, Thun MJ. Cancer statistic. CA
Cancer J Clin,2007;57:43–66.
Jurema MW, Noigueira D. In vitro maturation of human oocytes for assisted
reproduction. Fertility and Sterility, 2006;86:1277–1291.
Kyrou D, Kolibianakis EM, Venetis CA, et al. How to improve the probability of
pregnancy in poor responders undergoing in vitro fertilization: a systematic review
and meta-analysis. Fertil Steril, 2009,91:749–66
Lim K, Yoon S and Lim J (2007). IVM as an alternative for over- responders. In
Tan SL, Chian RC, Buckett WM (eds). In vitro maturation of human oocytes:
Basic science to clinical application. Informa Healthcare, UK, p345
Lim J, Yang SH, Xu Y, Yoon SH and Chian RC. Selection of patients for natural
cycle in vitro fertilization combined with in vitro maturation of immature oocytes.
Fertil Steril, 2009;91:1050-5
Liu J, Lu G, Qian Y et al. Pregnancies and births achieved from in vitro matured
oocytes retrieved from poor responders undergoing stimulation in invitro
fertilization cycles. Fertil Steril, 2003;80:447–9.
Liu J, Lim J and Chian RC (2007). IVM as an alternative for poor responders. In
Tan SL, Chian RC, Buckett WM (eds). In vitro maturation of human oocytes:
Basic science to clinical application. Informa Healthcare, UK, p333
Mikkelsen AL, Lindenberg S. Benefit of FSH priming of women with PCOS to
the in vitro maturation procedure and the outcome: A randomized prospective

study. Reproduction 2001;122(4):587–92.
Mikkelsen AL, Ravn SH, Lindenberg S. Evaluation of newborns delivered after in
vitro maturation. Hum Reprod, 2003;8:xviii
Pandian Z, McTavish AR, Aucott L, Hamilton MPR, Bhattacharya S.
Interventions for ’poor responders’ to controlled ovarian hyper stimulation (COH)
in in-vitro fertilisation (IVF). Cochrane Database of Systematic Reviews 2010,
Issue 1. Art. No.: CD004379.
PHTuân, GHNhư, VTNLan. Rescued IVM in over responder with controlled
ovarian stimulation. 3
rd
Congress of the Asia Pacific Initiative on Reproduction,
2010, Bankok, Thailand
Russell JB, Knezevich KM, Fabian KF, Dickson JA Unstimulated immature
oocyte retrieval: early versus midfollicular endometrial priming. Fertility and
Sterility, 1997;67:616–620.
Siristatidis CS, Maheshwari A, Bhattacharya S. In vitro maturation in sub fertile
women with PCOS undergoing assisted reproduction. Cochrane Database of
systematic Reviews 2009, Issue 1. Art. No.: CD006606.
Söderström-Anttila V, Makinen S, Tuuri T, Suikkari AM. Favourable pregnancy
results with nsemination of in vitro matured oocytes from unstimulated patients.
Human Reproduction, 2005; 20:1534–1540.
Surrey ES, Schoolcraft WB. Evaluating strategies for improving ovarian response
of the poor esponder undergoing assisted reproductive techniques. Fertil Steril
2000;73:667–76.
Thornton MH, Francis MM, Paulson RJ. Immature oocyte retrieval: lessons from
unstimulated IVF cycles. Fertil Steril 1998;70: 647–50.
Yu X, Li B, Zhou G and Guo J. Clinical outcomes for various causes of infertility
with natural-cycle in vitro fertilization combined with in vitro maturation of
immature oocytes. Fertil Steril, 2010, in press.


×