Phong trào Cần Vương chống Pháp (1885-
1896)
1. Sự bùng nổ của phong trào. Đối với thực dân
Pháp, việc ký Hiệp ước Patơnôt ngày 6-6-1884 đã
chấm dứt giai đoạn xâm lược ngót 30 năm. Nhưng
cuộc kháng chiến của nhân dân ta vẫn còn âm ỉ
trong hoàn cảnh mới.
1. Sự bùng nổ của phong trào.
Đối với thực dân Pháp, việc ký Hiệp ước Patơnôt
ngày 6-6-1884 đã chấm dứt giai đoạn xâm lược ngót
30 năm. Nhưng cuộc kháng chiến của nhân dân ta
vẫn còn âm ỉ trong hoàn cảnh mới. Vả lại, thực dân
Pháp mới chỉ xác lập được quyền lực ở trung ương,
còn phần lớn các địa phương ở xứ Bắc và Trung Kỳ
chúng chưa thể nắm được. Vì thế, thực dân Pháp còn
phải trải qua giai đoạn 12 năm mà chúng gọi là giai
đoạn bình định, đàn áp các phong trào vũ trang cuối
cùng.
Trong triều, phe chủ chiến dù khó khăn, vẫn không
nản chí. Vấn đề trước mắt họ là phải tìm ra một nhân
vật mà phái chủ chiến có thể khống chế được để đưa
lên ngôi.
Vua Hàm Nghi (húy là Ưng Lịch), được đưa lên ngôi
tháng 8-1884, sớm tỏ ra có khí phách ngay trước mặt
tên Trú sứ Rây na (Rheinart) và các sĩ quan Pháp có
mặt trong buổi lễ đăng quang của mình tại kinh thành
Huế.
Đại biểu cho phe chủ chiến trong triều là Phan Đình
Phùng, Ông Ích Khiêm, Trần Xuân Soạn đứng đầu
là Tôn Thất Thuyết (1835 - 1913). Mặc dù có những
điểm bất đồng trong chuyện phế lập, nhưng phái chủ
chiến và đa số hoàng tộc đã nhanh chóng thông qua
kế hoạch táo bạo đánh úp quân Pháp ở đồn Mang Cá
và toàn bộ khu vực Kinh thành của Tôn Thất Thuyết.
Lực lượng quân Pháp ở Huế có tới 2300 tên do tướng
Đờ Cuốc xy (De Courcy) chỉ huy nhằm tiêu diệt lực
lượng chủ chiến của Tôn Thất Thuyết.
Nhưng phe chủ chiến đã nhanh tay hơn. Đêm 4 rạng
5-7-1885, Tôn Thất Thuyết và Trần Xuân Soạn nổ
súng đánh úp đ
ồn Mang Cá. Quân Pháp mất 4 sĩ quan
và trên 60 lính. Nhưng do sự chuẩn bị chưa đầy đủ
nên khi quân Pháp phản công, quân ta bị động, thiệt
hại rất lớn. Tôn Thất Thuyết phải đưa xa giá vua
Hàm Nghi rời kinh thành, đi ra Quảng Trị mà từ lâu
ông đã cho chuẩn bị cơ sở.
Khi tới Tân Sở (Quảng Trị), quân sĩ chỉ còn 500
người. Ngày 13-7-1885, Hàm Nghi xuống chiếu Cần
Vương lần thứ nhất, nêu lại sự kiện "sự biến Kinh
thành", hô hào dân chúng phò Vua cứu nước. Ngày
19-9-1885, khi Pháp vội vã đưa Đồng Khánh lên làm
Vua bù nhìn ở Huế, Hàm Nghi xuống chiếu lần thứ
hai, bóc trần âm mưu của Pháp, cảnh cáo thế lực đầu
hàng của Đồng Khánh và nêu cao tính chính thống,
chính nghĩa của mình.
Quân Pháp đánh chiếm Quảng Bình tháng 7-1885,
Nghệ An tháng 8-1885, Quảng Nam tháng 12-1885
để bao vây chặt lực lượng chủ chiến. Mặt khác,
chúng ra sức khủng bố, mua chuộc những người có
liên quan đến sự kiện còn ở Kinh thành, tăng cường
lực lượng ngụy binh, tô vẽ cho triều đình Đồng
Khánh vừa dựng lên một cách vội vã.
Nhưng tất cả hành động đó của chúng không ngăn
được một phong trào dân tộc võ trang đã âm
ỉ sục sôi,
chỉ đợi dịp nổ bùng.
2. Hai giai đoạn phát triển của phong trào Cần
Vương
* Giai đoạn thứ nhất ( 1885 - 1888)
Lúc đầu, "Triều đình Hàm Nghi" với sự phò tá của 2
người con Tôn Thất Thuyết là Tôn Thất Đàm và Tôn
Thất Thiệp, Đề đốc Lê Trực, Tri phủ Nguyễn Phạm
Tuân di chuyển và chiến đấu ở vùng rừng núi Quảng
Bình; sau phải vượt Trường Sơn, qua đất Hạ Lào về
vùng sơn phòng Ấu Sơn (Hà Tĩnh). Đây là trang sử
vẻ vang hiếm có của một ông vua yêu nước khi dòng
họ mình nói chung đã hàng giặc. Để chiến đấu lâu
dài, Tôn Thất Thuyết và Trần Xuân Soạn quyết định
vượt vòng vây đi xây dựng lực lượng kháng chiến ở
Thanh Hoá, rồi qua Trung Quốc.
Tháng 12-1886, theo lệnh Toàn quyền Pôn Be (P.
Bert), Đồng Khánh xuống 1 dụ kêu hàng, nhưng
không một ai trong "Triều đình Hàm Nghi" chịu
buông súng.
Ngược lại, chưa bao giờ cả nước ta lại có nhiều cuộc
khởi nghĩa đến như thế dưới ngọn cờ Cần Vương.
Trong giai đoạn đầu này, phong trào Cần Vương trải
rộng từ địa bàn trung tâm ra Bắc và Nam Kỳ. Ở
Trung Kỳ, trước hết là Quảng Bình với Lê Trực,
Nguyễn Phạm Tuân ; Quảng Nam là Trần Quang Dự,
Nguyễn Hàm, Nguyễn Duy Hiệu ; Quảng Ngãi là Lê
Trung Đình ; Bình Định là Mai Xuân Thưởng . . .
Bắc Kỳ cũng có nhiều cuộc khởi nghĩa quan trọng
như Đốc Tít ở Đông Triều, Cai Kinh ở Bắc Giang,
Nguy
ễn Quang Bích ở Tây Bắc Đặc biệt, xứ Bắc Kỳ
cũng đang hình thành những cuộc khởi nghĩa lớn, có
sức chiến đấu mạnh mẽ, có tiếng vang như Tạ Hiện ở
Thái Bình, Nam Định; Nguyễn Thiện Thuật ở Hưng
Yên, Hải Dương; Phạm Bành, Đinh Công Tráng ở
Thanh Hóa; Lê Ninh, Phan Đình Phùng ở Đức Thọ,
Hương Khê (Hà Tĩnh)
* Giai đoạn thứ hai ( 1888- 1896)
Đêm 1-11-1888, vua Hàm Nghi bị giặc bắt do sự
phản bội của Trương Quang Ngọc tại v
ùng núi Tuyên
Hóa (Quảng Bình). Ông bị đày đi Angiêri.
Trong điều kiện ngày càng khó khăn, số lượng các
cuộc khởi nghĩa có giảm bớt, nhưng lại tập trung
thành những trung tâm kháng chiến lớn.
Tại Thanh Hóa, cứ điểm Ba Đình bị san phẳng sau
cuộc tiến công dài ngày đầu tháng 1-1887 của 3000
quân Pháp. Phạm Bành, Đinh Công Tráng mở đường
máu về căn cứ Mã Cao (Yên Định) theo kế hoạch đã
định. Họ đã chiến đấu ở Mã Cao nhiều tháng trời,
thắng nhiều trận đáng kể và chỉ rút lui khi Mã Cao bị
vỡ vào mùa thu 1887.(5)
Nhưng dưới sự lãnh đạo của Tống Duy Tân ở Vĩnh
Lộc và sự trợ giúp của các thủ lĩnh người Thái là
Cầm Bá Thước, người Mường là Hà Văn Mao, ngọn
lửa Ba Đình lại được thổi lên, gọi là khởi nghĩa Hùng
Lĩnh, kéo dài tới năm 1892.
Cuộc khởi nghĩa Bãi S
ậy của Nguyễn Thiện Thuật nổ
ra từ năm 1885, với lối đánh du kích, biến hóa phân
tán, dựa vào thiên nhiên của nghĩa quân Bãi Sậy, tuy
không có những trận đánh lớn như ở Ba Đình nhưng
cũng gây cho quân Pháp nhiều tổn thất.
Cuộc khởi nghĩa lớn nhất, kéo dài suốt thời Cần
Vương là khởi nghĩa Hương Khê. Kế thừa cuộc khởi
nghĩa đầu tiên của Lê Ninh ở Đức Thọ, Hà T
ĩnh, Tiến
sĩ Phan Đình Phùng với sự trợ giúp của Cao Thắng,
Ngô Quảng, Cao Đạt, Hà Văn Mỹ, Nguyễn Chanh,
Nguyễn Trạch đã đưa cuộc khởi nghĩa này lên tầm
vóc lớn nhất, độc đáo nhất thời Cần Vương.
Phan Đình Phùng đã chia địa bàn 4 tỉnh: Thanh,
Nghệ, Tĩnh, Bình thành 15 quân th
ứ, xây dựng những
chiến tuyến cố định, mạnh (Cồn Chùa, Thượng Bồng
- Hạ Bồng, Trùng Khê - Trí Khê, Vụ Quang) kết hợp
lối đánh du kích với lối đánh lớn chiến tuyến cố định,
cuộc khởi nghĩa Hương Khê đã gây cho quân Pháp
nhiều tổn thất. Phó tư
ớng Cao Thắng, hy sinh lúc mới
30 tuổi là người có tài chế súng theo kiểu năm 1874
của Pháp. Thực dân Pháp phải huy động một lực
lượng quân sự lớn, không kể cả 3000 ngụy quân của
Nguyễn Thân, vượt xa cả quân số, vũ khí khi chúng
tấn công thành Ba Đình. Nh
ững chiến thắng của Phan
Đình Phùng như trận đánh úp thành Hà Tĩnh, bắt
sống Tri phủ Đinh Nho Quang 1892, trận Vạn Sơn
tháng 3-1893, trận tập kích Hà Tĩnh lần thứ hai năm
1894 và trận Vụ Quang tháng 10-1894 được coi là
một thành tựu của nghệ thuật quân sự Việt Nam lúc
đó.
Phan Đình Phùng tạ thế ở núi Quạt (Hà Tĩnh) ngày
28-12-1895 để lại bài thơ Tuyệt mệnh vào loại xuất
sắc trong văn học cận đại. 23 bộ tướng của ông cũng
bị giặc Pháp bắt và xử tử tại Huế. Đầu năm 1896,
những tiếng súng cuối cùng của phong trào Cần
Vương chấm dứt.
Phong trào Cần Vương cuối thế kỷ XIX là
phong trào
dân tộc, phong trào yêu nước chống chủ nghĩa thực
dân xâm lược kết hợp với chống triều đình phong
kiến đầu hàng đã diễn ra sôi nổi, rộng khắp. Phong
trào tuy thất bại nhưng đã tô thắm thêm truyền thống
anh hùng, bất khuất của dân tộc Việt Nam.
(1) Từ 1802, khi bắt đầu vương triều Nguyễn đến khi
sụp đổ hoàn toàn năm 1945, chế độ này đã tr
ải qua 13
triều vua: Gia Long (1802-1819), Minh Mạng (1820-
1840), Thiệu Trị 1841-1847), Tự Đức (1848-1883),
Dục Đức (1883, trong 3 ngày), Hiệp Hòa (1883,
trong 4 tháng), Kiến Phúc (1883-1884), Hàm Nghi
(1884-1885), Đồng Khánh (1885-1888), Thành Thái
(1889-1907), Duy Tân (1907-1916), Khải Định
(1916-1925), Bảo Đại (1925-1945). Trong các triều
vua đó, chỉ có 4 đời vua đầu tiên là chế độ phong
kiến độc lập.
(2). C. Gosselin, L'empire d' Annam, Paris, 1904.
(3). Xem G. Taboulet, La geste Franẹaise en
Indochine, T. II, Paris, 1955, tí. 405.
(4). Để “ghi nhớ" công lao của binh lính Tây Ban
Nha, một trong những đường phố chính của thành
phố Sài Gòn đ¬ược xây dựng từ năm 1865 đã mang
tên "Espagne" (phố Lê Thánh Tông hiện nay).
(5). Xem A. Mason, Souvenir de 1' Annam ét du
Tonkin, Paris, 1892.
Nguồn:Nguyễn Quang Ngọc 2006, Chương VII –
Việt Nam nửa cuối thế kỷ XIX , Tiến trình Lịch sử
Việt Nam, Hà Nội,Giáo Dục, Tr.222 – 225.