Tải bản đầy đủ (.pdf) (24 trang)

Đợt khai thác thuộc địa lần thứ nhất (18971914) ppt

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (221.75 KB, 24 trang )

Đợt khai thác thuộc địa lần thứ nhất (1897-
1914)


Từ cuối thế kỉ XIX, phong trào vũ trang khởi
nghĩa từ Nam chí Bắc sau khi Hàm Nghi xuất
binh và phát hịch Cần Vương đã tàn lụi dần với
sự thất bại của cuộc khởi nghĩa Hương Sơn
(1896). Một số thổ hào địa phương n
ổi dậy ngay từ
khi thực dân Pháp mới đặt chân tới đất nước ta
đến nay tuy vẫn còn cố gắng cầm cự, nhưng cũng
chỉ đóng khung trong phạm vi nhỏ hẹp từng vùng
và trên con đường tan rã.
Từ cuối thế kỉ XIX, phong trào v
ũ trang khởi nghĩa
từ Nam chí Bắc sau khi Hàm Nghi xuất binh v
à phát
hịch Cần Vương đã tàn lụi dần với sự thất b
ại của
cuộc khởi nghĩa Hương Sơn (1896). Một số thổ h
ào
địa phương nổi dậy ngay t
ừ khi thực dân Pháp mới
đặt chân tới đất nước ta đến nay tuy vẫn còn c
ố gắng
cầm cự, nhưng c
ũng chỉ đóng khung trong phạm vi
nhỏ hẹp từng vùng và trên con đường tan r
ã. Duy có
cuộc khởi nghĩa của nông dân Yên Th


ế do Đề Thám
(Hoàng Hoa Thám) lãnh đạo trong tình thế bị
bao vây
o ép nên đến tháng 12 - 1897 buộc phải đình chi
ến
lần thứ hai với kẻ thù. Th
ực dân Pháp cố tranh thủ
thời gian này chuẩn bị mọi điều kiện chờ ngày tri
ệt
hạ pháo đài cuối cùng của phong trào kh
ởi nghĩa của
nhân dân ta. Về phía nghĩa quân thì nh
ững hoạt động
cuối cùng từ 1909 đến 1913 cũng chỉ là nh
ững đợt
sóng cuối cùng của một cao trào yêu nước chống
xâm
lược của nhân dân ta mà thôi.
Thực dân Pháp như vậy về căn bản đ
ã hoàn thành
công cuộc bình định Việt Nam về mặt quân sự, và

trong bối cảnh đó đã có thể bắt tay v
ào khai thác
thuộc địa Việt Nam nói riêng cũng nh
ư Đông Dương
nói chung một cách quy mô.
Ngày 22-3-1897, Toàn quyền Đông D
ương Pôn
Đume (Paul Doumer) gửi cho Bộ trư

ởng Bộ Thuộc
địa Pháp dự án chương trình hoạt động:
“1. Tổ chức một chính phủ chung cho to
àn Đông
Dương và tổ chức bọ máy cai trị h
ành chính riêng
cho từng “xứ” thuộc Liên bang.
2. Sửa đổi lại chế đợ tài chính, thi
ết lập một hệ thống
thuế khóa mới sao cho phù hợp với yêu c
ầu của ngân
sách, nhưng phải dựa trên cơ sở xã hội cụ thể, và ph
ải
chú ý khai thác những phong t
ục, tập quán của dân
Đông Dương.
3. Chú ý xây dựng thiết bị lớn cho Đông D
ương, như
xây dựng hệ thống đường sắt, đường bộ, sông đ
ào,
bến cảng rất cần thiết cho công cuộc khai thác.
4. Đẩy mạnh nền sản xuất và thương m
ại bằng việc
phát triển công cuộc thực dân của người Pháp v
à lao
động của người bản xứ.
5. Bảo đảm phòng thủ Đông Dương b
ằng việc thiết
lập những căn cứ hải quân và ph
ải tổ chức quân đội

và hạm đội cho thật vững mạnh.
6. Hoàn thành công cuộc bình định xứ Bắc Kì, b
ảo
đảm an ninh vùng biên giới Bắc Kì.
7. Khuếch trương ảnh hưởng của nư
ớc Pháp, mở rộng
quyền lợi của nước Pháp ở vùng Viễn Đông, nhất là

các nước lân cận".
Đume rất am hiểu tình hình Đông Dương vì đ
ã
từng là nghị sĩ giữ chức Thượng th
ư Tài chính trong
Chính phủ Pháp và là báo cáo viên những dự án lu
ật
thanh toán tạm thời và tổng thanh toán tài chính B
ắc
và Trung Kì. Chương trình khai thác do Đume v
ạch
ra để thi hành ở Đông Dương (chủ yếu là Vi
ệt Nam)
từ những năm đầu thế kỉ XX có mục đích tối thư
ợng
là biến gấp Đông Dương thành m
ột thuộc địa khai
khẩn bậc nhất, bảo đảm siêu l
ợi nhuận cao nhất cho
đế quốc Pháp.
Sênô (Jean Chesneaux) trong cuốn
Đóng góp vào

lịch sử dân tộc Việt Nam đã đánh giá cao Dume:
“Chính ông đã đưa ch
ế độ thuộc địa từ giai đoạn kinh
nghiệm chủ nghĩa hầu như “th
ủ công" sang giai đoạn
tồ chức hệ thống. Chính ông đã t
ạo dựng bộ máy
thống nhất về bóc lột tài chính và đàn áp chính tr

trong thực tế sẽ được duy trì nguyên vẹn đ
ến tận
1945”

1. Một bộ máy hành chính cai trị chặt chẽ
Mới đặt chân sang Việt Nam được vài tu
ần, Đume
đã gửi về Bộ Thuộc đ
ịa một bản báo cáo tổng quát về
tình hình Đông Dương:
“Hiện nay tình hình chinh trị toàn cõi
Đông
Dương không một nơi nào đáng lo ng
ại hay quá bi
đát. Thực tế, tại nhiều nơi c
ũng có những khó
khăn có thể sẽ trầm trọng thêm; nhân dân toàn x
ứ đều
như đã khuất phục dưới quy
ền thống trị của chúng ta,
nhưng chưa phải đã thấm nhuần tính chất v

ĩnh viễn
của nền đô hộ Pháp và sẵn sàng nắm lấy một thời c
ơ
thuận lợi hay m
ột giây phút yếu đuối của chúng ta để
lật đổ ách nặng trên đầu”
Để phục vụ kịp thời và đ
ắc lực cho công cuộc khai
thác và bóc lột kinh t
ế, Đume chú ý tới hai yếu tố
chính trị “chia để trị” và “dùng người Việt trị người

Việt”.
Một mặt, Đume tìm mọi cách chia cắt đất nư
ớc,
chia rẽ dân tộc Việt Nam hòng phân tán lực lư
ợng để
dễ bề cai trị. Nhưng mặt khác, ông ta lại
quan tâm
đến sự thống nhất của bộ máy thuộc địa to
àn Đông
Dương. Đó là sự phức tạp trong tính chất hai m
ặt của
một chính sách thâm độc.
Theo sắc lệnh ngày 17-10-1887, th
ực dân Pháp
thành lập Liên bang Đông Dương, năm đó m
ới bao
gồm có Bắc Kì, Trung Kì, Nam Kì và
Campuchia,

trực thuộc Bộ Hải quân và Thuộc địa. Ngày 19- 4-
1899, Tổng thống Pháp ra sắc lệnh sáp nhập th
êm
Lào vào Liên bang Đông Dương. Vi
ệt Nam bị chia
cắt làm 8 kì: Bắc Kì, Trung Kì và Nam Kì v
ới ba chế
độ cai trị khác nhau. Bắc Kì và Trung Kì là hai x

bảo hộ vẫn còn giữ lại chính quy
ền phong kiến về
hình thức; Nam Kì là đất thuộc địa hoàn
toàn do
Pháp nắm cùng với Lào và Campuchia cũng là đ
ất
bảo hộ của Pháp, hợp thành
Liên bang Đông Dương.
Với thủ đoạn này, chúng nhằm xóa bỏ tên Việt
Nam,
Lào, Campuchia trên bản đồ thế giới.
Đứng đầu Liên bang Đông Dương có Toàn quy
ền,
là người thay mặt chính phủ Pháp cai trị Đông D
ương
về mọi mặt. Dưới Toàn quyền là Thống đốc
Nam Kì,
Thống sứ Bắc Kì và Khâm sứ ở Trung K
ì, Lào,
Campuchia.
Cơ quan quyền lực tối cao là H

ội đồng tối cao
Đông Dương, Chủ tịch Hội đồng là Toàn quy
ền, các
Uỷ viên Hội đồng hầu hết là người Pháp, chỉ có
hai
người Việt đại biếu cho dân “bản xứ”. Các Uỷ vi
ên là
giám đốc các công sở, các viên quan cai tr
ị đứng đầu
5 xứ, chủ sự các Phòng Thương mại và Canh nông

Hội đồng họp thường kì mỗi năm một lần để b
àn
bạc và thông qua ngân
sách Đông Dương, ngân sách
hàng xứ, cùng các công việc do Toàn quyền đ
ề xuất
có liên quan đến việc thống trị v
à khai thác Đông
Dương.
Đến năm 1911, đổi thành H
ội đồng Chính phủ
Dông Dương gồm 23 ủy viên, có 4 ngư
ời "bản xứ"
do Toàn quyền lựa chọn và chỉ định hằng năm (g
ồm
3 người Việt của 3 xứ và 1 người Campuchia).
Văn phòng Phủ Toàn quyền gồm có các ph
òng:
Chính trị, Hành chính, Quân sự, Nhân sự v

à Văn thư
là cơ quan thường trực của Phủ Toàn quyền kiêm c

công việc đối ngoại và khen thưởng kỉ luật. Các c
ơ
quan khác có Hội đồng phòng thủ Dông D
ương thành
lập ngày 31-10-1902; ủy ban Tư vấn về mỏ thành l
ập
ngày 26-5-1913; Hội đồng Tư vấn Học chính
Đông
Dương thành lập ngày 21-12-1917; S
ở chỉ đạo công
việc chính trị và bản xứ, Sở tình
báo An ninh trung
ương (tức Sở mật thám)…
Việc củng cố chính quyền Liên bang g
ắn với việc
củng cố chính quyền các xứ Thủ đoạn “chia để trị” l
à
một trong những nguyên tắc chỉ đạo hành đ
ộng của
chúng.
Nam Kì là đ
ất thuộc địa không có quan hệ phụ
thuộc vào Nam triều. Ngày 8-2-1880, T
ổng thống
Pháp ra sắc lệnh thành lập Hội đồng thuộc đ
ịa Nam
Kì, quy định rõ chức năng của nó là cơ quan “tư


vấn”, có thể bàn v
ề thuế má, thu chi , tuyệt đối
không đư
ợc đề cập đến vấn đề chính trị. Hội đồng
thuộc địa có 16 thành viên (10 Pháp, 4 Việt đ
ã vào
“làng Tây”, nói được tiếng Pháp và m
ột số đại biểu
của Phòng Thương mại và Hội đồng Tư vấn).
Giúp việc cho Thống đốc còn có Hội đồng Tư v
ấn
(Thống đốc chủ tọa và 4 ủy viên ngư
ời Pháp, 2 ủy
viên người Việt do Thống đốc chỉ định và 4 ủy
viên
dự khuyết Hội đồng hình sự (tức Hội đổng tư v
ấn
thêm 2 quan toà, có quy
ền hạn đối với cả Campuchia
và Lào). Ngoài ra còn có Phòng Thương mại th
ành
lập từ năm 1868 và Phòng Canh nông thành l
ập từ
năm 1897 gồm toàn người Pháp. Đây là t
ổ chức của
“Côlông” (người Pháp sang làm ăn ở Đông D
ương)
lập nên. Hai phòng này được cử một nghị sĩ v
ào

Nghị viện Pháp.
Nam Kì được chia thành 20 tỉnh: Bạc Li
êu, Bà
Rịa, Bến Tre, Biên Hòa. Cần Thơ, Châu Đ
ốc, Chợ
Lớn, Gia Định, Gò Công, Hà Tiên, Long Xuyên, M

Tho, R
ạch Giá, Sa Đéc, Sóc Trăng, Tân An, Tây
Ninh, Thủ Dầu Một Trà Vinh, Vĩnh Long. Có 2 th
ành
phố: Sài Gòn là thành phố cấp I và Chợ Lớn l
à thành
phố cấp II.
Đứng đầu tỉnh là công sứ người Pháp. Tỉnh n
ào
lớn có thêm phó công sứ giúp vi
ệc cho Chánh, Phó
Công sứ có Sở Tham biện và Hội đồng hàng tỉnh.
Đứng đầu thành ph
ố có Chánh, Phó Đốc lí với
Tòa Đốc lí và Hội đồng thành phố (cho thành ph
ố cấp
I) hoặc Uỷ ban thành phố (cho thành phố cấp II) T
ỉnh
có một số trung tâm hành chính ho
ặc Sở Đại lí. Tính
đến năm 1919,
Nam Kì có 64 trung tâm hành chính
và Sở Đại lí. Đứng đầu các đơn vị này có Đ

ốc phủ
sứ, Tri phủ hay Tri huyện. Một số địa phương ho
ặc
khu vực có t
ầm quan trọng đặc biệt về chính trị hoặc
quân sự có Đại lí người Pháp, đại di
ện trực tiếp của
công sứ cai trị.
Để giúp việc cho bộ máy hành chính cai tr
ị của
Pháp, thực dân Pháp vẫn gi
ữ hệ thống chính quyền
phong kiến ở dưới làng xã, có xã trư
ởng,
hương trưởng và Hội đồng kì hào. Nam gi
ới có 2
loại: tráng đinh (có tài sản, phải nộp thuế) và b
ạch
đinh (không có tài sản).
Trung Kì là xứ bảo hộ, vẫn duy trì "triều đ
ình nhà
Nguyễn", nhưng vua An Nam không có "th
ực
quy
ền". Giúp việc vua có Hội đồng Phụ chính
cùng Viện Cơ mật trông coi về đường lối lãnh đ
ạo
quốc gia, Viện Đỗ sát kiểm soát ho
ạt động của quan
lại. Còn có Hội đồng Phủ Tôn nhân để quản lí

công
việc của dòng họ nhà vua. Quyền hành th
ực sự nằm
trong tay Khâm s
ứ Chủ tịch Hội đồng Bảo hộ Trung
Kì. Sau khi ép Thành Thái ra đạo dụ ngày 27-9-
1897,
toàn bộ quyền cai trị giao cho Tòa Khâm s
ứ. Hội
đồng Phụ chính, Hội đồng Thượng thư đều bãi b
ỏ.
Có Hội đồng Cơ mật gồm 6 bộ (Lại, Hình, Binh, H
ộ,
Lễ, Học), nhưng m
ọi quyết định của Hội đồng
này đều phải được Khâm s
ứ thông qua mới chuyển
lên nhà vua. Khâm sứ có quy
ền chủ tọa cả Hội đồng
Cơ mật và Hội đồng Phủ Tôn nhân. Mỗi bộ đều

một viên chức Pháp đại diện cho Khâm sứ nắm gọi l
à
Hội lí. Các quan lại triều đình, t
ừ chánh nhất phẩm
đến tòng tam phẩm, triều đình Huế chỉ đư
ợc bổ dụng
sau khi Khâm s
ứ chuẩn y. Quan lại từ chánh tứ phẩm
trở xuống do Khâm sứ bổ nhiệm.

Khâm s
ứ có một Hội đồng giúp việc gồm một số
viên chức người Pháp, một đại diện của Ph
òng
Thương mại và Canh nông, hai đại diện của Viện

mật. Việc x
ử án do một Hội đồng luận án chung cho
cả Trung Kì và Bắc Kì đặt tại Hà Nội giải quyết.
Trung Kì có 14 tỉnh: Thanh Hóa, Nghệ An, H
à
Tĩnh, Quảng Bình, Quảng Trị, Thừa Thiên, Qu
ảng
Nam, Quảng Ngãi, Bình Định, Phú Y
ên, Khánh Hoà,
Phan Rang, Bình Thuận, Đắc Lắc, thành phố Đ
à
Nẵng là “đất nhượng địa”.
Đứng đầu tỉnh là viên Công sứ người Pháp, có c
ơ
quan Toà Công sứ giúp vi
ệc Cũng có các bộ phận
công tác khác như ở Nam Kì. Nhưng ở đây (và c

Bắc Kì) v
ẫn tồn tại hệ thống tổ chức quan lại cũ của
Nam triều, đứng đầu tỉnh là T
ổng đốc (tỉnh lớn) hoặc
Tuần phủ (tỉnh nhỏ), án sát coi việc tư pháp, B


chính coi việc thuế khóa, Lãnh binh (t
ỉnh nhỏ) hoặc
Đê đốc (tỉnh lớn) coi việc binh .
Dưới tỉnh là ph
ủ, huyện, châu (miền núi), có cáo
Tri phủ, Tri huyện, Tri châu thay mặt Công sứ v
à
Tổng đốc (Tuần phủ) cai quản từng phủ hoặc t
ừng
huyện. Có một số nha thuộc giúp việc như đ
ề lại, lục
sự, thừa phái.
Tổng là đơn vị hành chính trung gian gi
ữa phủ,
huyện với các làng, xã tr
ực thuộc. Một phủ hay
huyện có nhiều tổng (thường là dư
ới 10 tổng)
do chánh, phó t
ổng cai quản. Mỗi tổng quản lí một số
làng xã (thường là trên dưới 10 làng xã).
Xã và làng (thôn) là cấp cơ s
ở của chính quyền
Nhà nước. Đứng đầu là lí trưởng, phó lí trưởng. C
òn
có Hội đồng kì hào, kì mục điều hành mọi công vi
ệc
của làng xã. Chế độ này
ở cả ba xứ Việt Nam gần
giống nhau. Đume thấy rõ sự lợi hại của nó: “Duy tr

ì
trọn vẹn, thậm chí tăng cường cách tổ chức cũ khi m
à
chúng ta đã thấy đó là m
ột điều tốt. Theo cách tổ
chức này thì mổi làng xã sẽ là một nước cộng ho
à
nhỏ, độc lập trong giới hạn những quy
ển lợi địa
phương .Đó là một tập thể đư
ợc tổ chức rất chặt chẽ,
rất có kỉ luật và r
ất có trách nhiệm đối với chính
quyền cấp trên về những cá nhân thành viên c
ủa nó,
những cá nhân mà chính quyền cấp trên có thể
không
c
ần biết tới, điều đó rất thuận lợi cho công việc của
chúng ta" .
Bắc Kì có cơ quan cai trị cao nhất là Ph
ủ Thống
sứ do Thống sứ người Pháp đ
ứng đầu, có Hội đồng
Bảo hộ giúp việc. Hội đống này có thể chuyển
thành
Hội đồng xét xử chung cho cả Bắc K
ì và Trung Kì.
Còn có thêm hai Phòng Thương mại và Canh nông


hai thành phố Hà Nội và Hải Phòng đư
ợc cử đại biểu
vào Hội đồng Bảo hộ. Bắc Kì có 26 tỉnh, 35 đại lí v
à
2 thành phố. 26 tỉnh là Bắc Giang, Bắc C
ạn, Bắc
Ninh, Hà Đông, Hà Giang, Hải Dương, Hải Ninh, H
à
Nam, Hoà Bình, Hưng Yên, Ki
ến An, Lai Châu,
Lạng Sơn, Lào Cai, Nam Định, Ninh
Bình, Phúc
Yên, Phú Thọ, Quảng Y
ên, Sơn Tây, Sơn La, Thái
Bình, Thái Nguyên, Tuyên Quang, Vĩnh Y
ên, Yên
Bái.
Đến 20-8-1891, Toàn quyền Đông Dương ra Ngh

định cắt một số khu vực của một số tỉnh để thành l
ập
tại Bắc Kì 4 đạo quan binh: Phả Lại, Lạng S
ơn, Yên
Bái, Sơn La. Năm 1916, đặt thêm đ
ạo quan binh thứ
5 gồm Lai Châu và Thượng Lào. Nh
ững đạo quan
binh này, chú trọng nhiều về việc bố phòng, ti
ễu phỉ,
đàn áp các cu

ộc nổi dậy chống đối của nhân dân
trong vùng.
Hệ thống chính quyền của Bắc Kì t
ừ cấp tỉnh trở
xuống về đại thể giống như ở Trung Kì.
Hầu hết các quan viên nắm quyền cai trị từ cấp x
ã
trở lên đều thuộc giai cấp địa chủ phong ki
ến, câu kết
với thực dân Pháp, làm tay sai cho chúng, ti
ếp tục áp
bức bóc lột nhân dân, nhất là ở các cấp l
àng xã,
phủ huyện, đạo, châu. Còn từ cấp tỉnh , xứ v
à Liên
bang Đông Dương thì quyền lực tập trung v
ào tay
những quan chức người Pháp. Vua tôi n

Nguyễn chỉ là bù nhìn được hư
ởng một số phụ cấp
lương bổng do thực dân Pháp chi tr
ả. Số công chức
người Pháp ở Việt Nam nói riêng và
ở Đông
Dương nói chung ngày một tăng thêm và chi
ếm tỉ lệ
cao nhất so với thuộc địa của các nư
ớc khác. Họ
hưởng lương rất cao và hưởng một chế độ h

ưu trí
đặc biệt, trở thành một lớp ngư
ời sâu mọt đục rỗng
ngân sách Đông Dương để
làm giàu cho cá nhân.
Năm 1907, chỉ riêng Sở Th
ương chính (Douane)
đã có tới 3341 nhân viên, tức là chiếm tỉ lệ 1 ngư
ời
trên số 5000 dân.
Số viên chức người Pháp ở Đông D
ương năm
1897 là 2860, năm 1902 là
3778, năm 1906 là 4390,
năm 1911 là 5683 người
Vào những năm 20 của thế kỉ n
ày, Đông Dương
với 25 triệu dân, có tới 4700 quan chức ngư
ời Pháp,
tương đương với số lượng quan chức người Anh
ở ấn
Đ
ộ, một xứ có 350 triệu dân. Tới những năm 30, số
lượng đó tăng gấp 3 lần số công chức ngư
ời Anh ở
Ấn Độ
Lương và phụ cấp lương của một Tổng đốc ngư
ời
Việt là 800 đồng Đông Dương tương
ứng với 750

phơrăng (1 đồng Đông Dương b
ằng 2,5
phơrăng), bằng lương và phụ cấp lương của một vi
ên
thư kí tòa sứ hạng nhì người Pháp, ho
ặc chỉ bằng một
phần ba lương và phụ cấp lương c
ủa Công sứ
hạng nhì đầu tỉnh. Ngoài tiền lương, họ còn đư
ợc
hưởng những khoản phụ cấp lớn và nh
ững khoản
cướp đoạt tài sản, xương máu c
ủa nhân dân Việt
Nam. M
ột cựu nghị sĩ Pháp sau khi đi thăm Đông
Dương về đã than phiền: “So với bọn viên ch
ức thuộc
địa thì những tên cướp đường còn là nh
ững
người lương thiện”.
Bên c
ạnh tổ chức chính quyền cấp cao nhất
xuống tận cơ sở, ở mỗi xứ đều có các Nha l
à chi
nhánh của các công sở trung
ương, có nhân viên
hoạt động tới tỉnh, huyện, x
ã. Các chi nhánh này tuy
đặt bên cạnh chính quyền x

ứ, tỉnh, song lại thuộc hệ
thống dọc chịu sự điều khiển của các công sở
trung
ương Hệ thống tòa án ở các xứ và t
ỉnh đều trực thuộc
Tổng biện lí bên cạnh Toàn quyền. C
ơ quan chính
quyền xã chỉ làm việc hòa giải. Chỉ có toà án t
ỉnh,
thành phố và các Tòa án t
ối cao mới có quyền xử án,
xử theo luật của Pháp từ thời kì Napôlêông ph
ối hợp
với luật Gia Long, hoàn toàn không có s
ự hiểu biết
đ
ầy đủ về phong tục tập quán Việt Nam. Khi cần
khủng bố nhân dân, đàn áp d
ập tắt các cuộc khởi
nghĩa, các hoạt động chống đối chính quy
ền thuộc
địa, chúng thiết lập một Hội đồng đề h
ình (Toà án
đặc biệt) để xét xử. Hội đống này chủ yếu t
ìm cách
làm thật nhiều án chém và án n
ặng, việc xét xử chỉ
làm chiếu lệ.

2. Bộ máy quân sự, cảnh sát, toà án và nhà tù

Đume mong muốn hoàn thành bình đ
ịnh sớm để
"phòng thủ Đông Dương", m
ở rộng quyền lợi của
nước Pháp ở vùng Viễn Đông, nhất là ở các nước
lân
cận với Đông Dương". Tình hình quốc tế lúc n
ày
đang có chiều hướng căng th
ẳng.Thực dân Anh tăng
cường lực lượng ở căn cứ Hương Cảng và
Xingapo.
Đ
ế quốc Đức có mặt ở Viễn Đông. Quân đội Nhật
xâm lược Trung Quốc và nhòm ngó Đông Dương.
Thực dân Pháp triệt để thực hiện chính sách "d
ùng
người Việt trị người Việt", dùng binh lính thu
ộc địa
để bảo vệ thuộc địa, hoặc để lấn chiếm thuộc địa. V
ì
vậy, việc tăng cường lực lư
ợng vũ trang, bắt lính
người Việt là cấp bách .
Ngày 7-7-1900, chúng ra đ
ạo luật về tổ chức quân
đội thuộc địa (troupes coloniales) bao g
ồm vừa binh
lính Pháp, vừa binh lính người bản xứ.
Ở Việt Nam, lính cơ (milice) là lực lư

ợng bổ sung
cho quân đội thuộc địa. Hội đổng phòng th
ủ Đông
Dương do Toàn quyền Đông Dương làm Chủ tịch

quy
ền huy động quân đội, lập các đạo quan binh,
tuyển mộ binh lính và phân bố lực lư
ợng. Trực tiếp
điều khiển quân đội ở Đông Dương là viên T
ổng chỉ
huy người Pháp. Dưới quyền y có Tổng tham m
ưu
trưởng và các viên chỉ huy bộ binh , hả
i quân, pháo
binh.
“Tính đến năm 1897, đội quân viễn chinh đã có:
- 3 liên đội bộ binh gồm 8 đại đội.
- 4 đại đội và 2 trung đội lê dương.
Phân phối như sau: 10 đại đội ở Bắc Kì, 2 đ
ại đội
ở Nam Kì, 2 trung đội ở Trung Kì.
Về quân lính bản xứ, con số cũng tăng nhiều:
- 3 liên đội pháo thủ Bắc Kì có 13 đ
ại đội, đóng ở
Bắc Kì.
- 1 liên đội pháo thủ Trung Kì có 3 đ
ại đội đóng ở
Nam Kì.
Súng ống trang bị cho quân lính được tăng cư

ờng,
có các binh chủng mới như pháo binh (b
ắt đầu từ
1899), kị binh (1900), công binh (1903), đ
ội
cầu, thông tin, vẽ bản đố bổ sung thêm tư
ớng tá, lấy
binh lính bản xứ ngày m
ột đông, tổ chức những đội
quân dự trữ (1898), tăng cường lính da đen
châu Phi
(cuối 1900); lập phòng tuyển lính và dự trữ ở Hà N
ội,
Sài Gòn (1901).

Lúc bấy giờ, dư
ới quyền Tổng chỉ huy quân đội
Pháp đã có đến 3 Thiếu tướng, Tổng cục trư
ởng hậu
cần, Giám đốc quân y, Đại tá ch
ỉ huy pháo binh, Đại
tá chỉ huy công binh.
Về hải quân, có phân nhánh hạm đội Nam K
ì và
hải quân công xưởng Sài Gòn dư
ới quyền chỉ huy của
một Đại tá hải quân; hải cảng Hồng Gai và Qu
ảng
Châu Loan do Trung tá hải quân ch
ỉ huy, cả hai đều

đặt dưới quyền một Thủy sư đô đốc chỉ huy t
ối cao
hạm đội Viễn Đông, có chân trong Hội đồng ph
òng
thủ Đông Dương
Ngày 1-11-1904, T
ổng thống Pháp ra sắc lệnh bắt
thanh niên ở Bắc Kì và Trung Kì t
ừ 22 tuổi đến 28
tuổi phải

×