Tải bản đầy đủ (.pdf) (26 trang)

Đợt khai thác thuộc địa lần thứ hai ppsx

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (264.94 KB, 26 trang )

Đợt khai thác thuộc địa lần thứ
hai



1. Tình hình chính trị
Sau Chiến tranh thế giới thứ nhất, thực dân Pháp đ
ã
tiến hành một số cải cách về chính tr
ị nhằm đối phó
với những biến động có thể xảy ra ở thuộc địa và h

trợ đắc lực cho chương trình khai thác thu
ộc địa lần
thứ hai. Mục tiêu c
ủa các cuộc cải cách nhỏ giọt đó
không gì hơn ngoài việc nới rộng nền tảng xã h
ội
( chế độ thuộc địa).
Các viên toàn quy
ền Pháp từ A. Xa rô, M. Lông đến
A. Va ren đã lần lượt ban hành nh
ững chính sách
theo hướng trên. Do đó, các vi
ện dân biểu Bắc
Kỳ Trung Kỳ được thành lập, các phòng thương m
ại
và canh nông của những thành Phố lớn đư
ợc mở rộng
cho người Việt tham gia. Năm 1928, th
ực dân Pháp


lập ra Đại hội đồng Kinh tế
Tài chính Đông Dương
với tư cách là cơ quan tư vấn về Vấn đề kinh tế, t
ài
chính trong Liên bang Đông Dương.
Trong khu vực nông thôn, thực dân Pháp tiến h
ành
"cải lương hương chính nhằm từng bước can thi
ệp
trực tiếp vào công việc nội bộ của làng xã, lo
ại bỏ
dần tính chất tự trị của nó. Trên nguyên t
ắc, công
cuộc cải lương hương chính vẫn chấp nhận cơ ch
ế
quản lý làng xã cổ truyền, nhưng trên m
ột chừng mực
nào đó thực dân Pháp đã đạt được mục tiêu can thi
ệp
trực tiếp vào công việc làng xã b
ằng cách kiểm soát
nhân sự, tài chính của bộ máy làng xã.
Tóm l
ại, chính sách của thực dân Pháp trong thế kỷ
20 là nới rộng một số Quy
ền lực chính trị cho các
tầng lớp trên, tạo ra mảnh đất tốt cho chủ nghĩa Pháp-
Việt đ
ề huề tạo sự ổn định chính trị để thu hút vốn
đầu tư vào Đông Dương nh

ằm thực hiện có hiệu quả
chương trình khai thác thuộc địa lần thứ hai 2.
2. Tình hình kinh tế
Là nước thắng trận, nhưng Pháp ra kh
ỏi Chiến tranh
thế giới thứ nhất với 'những tổn thất lớn trên nhi
ều
lĩnh vực. Những vùng giàu có nhất nư
ớc Pháp, đặc
biệt các vùng công nghiệp phát triển, bị tàn phá n
ặng
nề; nhiều ngành công nghiệp bị đình tr
ệ. Đồng thời,
nước Pháp trở thành con n
ợ lớn. Tổng số nợ
của 'nước Pháp đến năm 1920 đã lên tới 300 t

phăng.
Tình hình trên đã thôi thúc chính quyền Pháp t
ìm
biện pháp vừa thúc đẩy nhanh n
ền sản xuất trong

ớc, đồng thời đẩy mạnh khai thác thuộc địa, nhất
là 'Đông Dương, nhằm nhanh chóng hàn g
ắn vết
thương chiến tranh,'phục hồi Nền kinh tế v
à khôi
phục vị thế chính trị của nước Pháp trên trư
ờng quốc

tế.
" Về mục tiêu, giống như cu
ộc khai thác thuộc địa
lần trước, cuộc khai thác thuộc lần này v
ẫn theo đuổi
một ý đồ nham hiểm : bòn rút thuộc địa để l
àm giàu
cho 'chính quốc nhưng không cho thuộc địa có cơ h
ội
cạnh tranh với chính quốc.
Về thời gian, cu
ộc khai thác thuộc địa lần thứ hai
được bắt đầu từ sau khi k
ết thức Chiến tranh thế giới
thứ nhất và chấm dứt trư
ớc cuộc tổng khủng
hoảng 'kinh tế thế giới , tức là t
ừ năm 1919 đến năm
1929.
Vế cơ cấu đầu tư, đã có sự thay đổi căn bản, nếu nh
ư
trước Chiến tranh thế giới lần thứ nhất chủ yếu là v
ốn
của tư bản nhà nước, thì trong cu
ộc khai thác thuộc
địa này vốn đầu tư vủa tư bản tư nhân đ
ứng vị trí
hàng đầu.
Về cường độ, cuộc khai thác thác thuộc địa lần th


hai diễn ra với một cường độ mạnh. Chỉ tính ri
êng
trong 6 năm (1924-1929), tổng số vốn đầu tư của t
ư
bản Pháp vào Đông Dương đã tăng g
ấp 6 lần so với
20 năm trước chiến tranh.
Về các lĩnh vực đầu tư, có s
ự thay đổi vị trí rất lớn.
Nếu như trong khai thác thu
ộc địa thứ nhất, khai
khoáng chiếm vị trí hàng đầu, thì trong cu
ộc khai
thác thuộc địa lần này vị trí đó thuộc về nông nghiệp.


ới tác động của công cuộc khai thác thuộc địa lần
thứ hai, cơ cấu và trình đ
ộ phát triển của nền kinh tế
Việt Nam tiếp tục có những bư
ớc chuyển biến theo
hướng hiện đại
Nông nghiệp là ngành đư
ợc thực dân Pháp chủ
trương đầu tư !ớn nhất. Năm 1924, số vốn đầu t
ư vào
nông nghiệp là 52 triệu phăng, thì năm 1927 đ
ã lên
tới 400 triệu phăng, chủ yếu chảy vào khu v
ực trồng

và khai thác cao su. Với số vốn đó và s
ự trợ lực của
chính sách ăn cướp ruộng đất, hàng trăm đ
ồn điền,
có những đồn điền rộng tới vài nghìn ha, đã xu
ất
hiện. Các chủ đồn điền người Pháp và ngư
ời Việt
khai thác triệt để phương thức canh tác và bóc l
ột
kiểu phong kiến và tiền tư sản.
Trong nông nghiệp, sự chuyển biến mạnh mẽ nhất l
à
sự chuyển đổi trong cơ cấu cây trồng. Ngoài nh
ững
đồn điền trồng lúa đã xuất hiện những đồn điền tr
ồng
cao su, trồng chè, trồng cà phê, trồng hạt tiêu , ngh
ĩa
là các chủ đầu tư đã khai thác th
ế mạnh của miền đấtt
nhiệt đới. Trong kinh doanh cao su đã hình
thành 3
tập đoàn lớn : Công ty đ
ất đỏ, Công ty trồng cây
nhiệt đới và Công ty Mitsơlanh. Sản lư
ợng mủ cao
su ngày một tăng. Năm 1929 đã xuất kho 10.00 t
ấn
mủ cao su.

Dù không cân đi và què quặt nhưng đã xu
ất hiện một
nền công nghiệp với hai bộ phận công nghiệp nặng

và công nghiệp nhẹ. Vào những năm 1920, địa h
ạt
này được tăng cường theo hai hư
ớng chính : I) mở
rộng về quy mô, về cường độ các xí nghiệp, nh
à máy
đã có từ trước; 2) xây dựng thêm nh
ững xí
nghiệp những công ty mới. Như v
ậy, so với thời kỳ
trước, ngành công nghiệp đã có bư
ớc tiến về chất.
Chẳng hạn, trong khai khoáng, đi đôi với việc th
ành
lập các công ty mới như Công ty than H
ạ Long, Công
ty than và mỏ kim khí Đông Dương đã xu
ất hiện
một số cơ sở chế biến quặng, đúc kim, thiếc

Quảng Yên, Hải Phòng, Cao Bằng - những loại h
ình
công nghiệp còn vắng bóng trước chiến tranh. C
ùng
v
ới sự điều chỉnh trong khu vực công nghiệp nặng,

khu vực công nghiệp nhẹ cũng trở nên sôi động h
ơn,
không chỉ tăng số lượng các nhà máy ch
ế biến nông
sản tại chỗ, mà còn đư
ợc nâng cấp, mở rộng quy mô
sản xuất .Nhà máy dệt Nam Định đư
ợc xây dựng từ
những năm cuối thế kỷ XIX nay đư
ợc mở rộng, nâng
cấp để trở thành một trung tâm dệt nổi tiếng trên
toàn
liên bang với một tổ hợp nhà máy khép kín t
ừ khâu
đầu đến khâu cuối.
Giao thông vận tải, một thành tố trong cơ s
ở hạ tầng,
đã được thực dân Pháp chủ yếu đầu tư xây d
ựng ngay
từ đầu, nay được tiếp tục đầu tư vốn và k
ỹ thuật
( hoàn tất những công trình đang dang dở và nâng c
ấp
một số phương tiện giao thông vận tải mới. Tr
ên
tuyến đường sắt xuyên Vi
ệt, thực dân Pháp tiếp tục
xây dựng các đoạn Vinh - Đông Hà, Đồng Đăng -
Na
Sầm(l) ; đến năm 1931 đã xây dựng đư

ợc 2389 km
đường sắt trên đất Việt Nam. Đường bộ tiếp tục đư
ợc
xây dựng, nhiều con đường quốc lộ và liên tỉnh đ
ã
được rải đá cấp phối và tráng nh
ựa. Đến năm 1930,
Pháp đã mở được 15.000 km đư
ờng bộ, trong đó
1 khoảng 2.000 km đường rải nhựa. Nếu như đư
ờng
sắt, đường bộ có vị trí quan trọng trong kinh t
ế đối
nội, thì đường thủy đóng vai trò ch
ủ đạo trong kinh tế
đối ngoại. Nó là phương ti
ện giao thông duy nhất lúc
đó nối nước ta với các nước bên ngoài. Vì thế, c
ùng
với quá trình hiện đại hóa các hải cảng đã có nh
ư
cảng Sài Gòn, Hải Phòng, Đà Nẵng, Pháp
cho xây
dựng các hải cảng mới như Hòn Gai, B
ến Thủy
Mạng lưới vận tải đường sông vùng châu th
ổ sông
Hồng và sông Cửu Long cũng được khai thác triệt để.

Thương nghiệp gồm ngoại thương và nội th

ương
cũng có những bước tiến m
ới. Xuất hiện các chợ lớn
như chợ Bến Thành (Sài Gòn), ch
ợ Đông Ba
(Huế), chợ Đồng Xuân (Hà Nội). Ngoại th
ương là
lĩnh vực buôn bán mà Pháp độc quy
ền. Thực dân
Pháp dựng hàng rào thuế quan để bảo hộ h
àng hóa
chính quốc bằng cách đánh thuế cao hàng hóa nư
ớc
ngoài, đặc biệt là hàng hóa Trung Quốc và Nh
ật Bản
đã hạn chế đến mức tối đa hàng ha của nước ngo
ài
nhập vào Đông Dương, t
ạo điều kiện tốt nhất cho
hàng hóa Pháp tràn ngập thị trường Việt Nam. Trư
ớc
chiến tranh, thị phần hàng hóa Pháp ở Đông D
ương
chiếm 37%, cuối những năm 1920 đã lên t
ới 63%.
Đặc trưng của nền thương mại thuộc địa được ph
ản
ánh rõ nét trong cơ cấu xuất nhập. Xuất chủ yếu l
à
những mặt hàng nguyên liệu, nông sản phẩm ; Nh

ập
chủ yếu là những mặt hàng công nghi
ệp, kỹ thuật,
những mặt hàng tiêu dùng cao cấp từ Pháp.
Bao trùm và chi phi toàn b
ộ đời sống kinh tế Đông
Dương là hệ thống ngân hàng, đứng đầu là
Ngân
hàng Đông Dương. Ngân hàng Đông Dương,
ngoài
chức năng được quyền phát hành giấy bạc, đã ch
ỉ đạo
các ngân hàng hàng tỉnh ( 19 Nông phố Ngân h
àng)
trong việc cho vay lãi , góp vốn thành lập các
công
ty, các đồn điền, các nhà máy. Như vậy, dư
ới tác
đ
ộng của cuộc khai thác thuộc địa lần thứ hai, nền
kình tế Việt Nam tiếp tục chuyển biến sâu sắc th
êm
theo hướng đa ngành, đa lĩnh vực. Về hình thức
đó là
một cơ cấu kinh tế thuộc địa, đã mang s
ắc thái hiện
đại nhưng thực đây chính là một cơ c
ấu kinh tế thuộc
địa mất cân đối , què quặt được biểu hiện rõ nét
ở tỷ

lệ giữa khu vực công nghiệp và nông nghi
ệp, giữa
khu vực công nghiệp nặng và công nghiệp nhẹ v
à
giữa các vùng và các miền của đất nước.
3. Tình hình xã hội
Trên phương diện xã hội, dư
ới tác động của cuộc
khai thác thuộc địa lần thứ hai, xã h
ội Việt Nam tiếp
tục có sự phân hóa giai cấp sâu sắc và cùng v
ới nó
là sự xuất hiện một hệ thống thành phố kiểu ph
ương
Tây.
a) Sự phân hoá giai cấp
* Giai cấp đia chủ : Nét đặc trưng của xã h
ội thuộc
địa là sự cấu kết chặt chẽ giữa thực dân và giai c
ấp
địa chủ phong kiến bản xứ. Giai cấp địa chủ vì th
ế,
không những không bị thu hẹp lại, mà trái lại đư
ợc
phát triển đủ mạnh để có thể trở thành nền tảng x
ã
hội của chế độ thuộc địa. Thế lực này đư
ợc đo bằng
s
ố ruộng đất tập trung trong tay họ. Ở Nam Kỳ, mức

độ tập trung ruộng đất cao hơn Bắc Kỳ và Trung K
ỳ.
Trong giai cấp địa chủ đã xuất hiện sự phân tầng r
õ
rệt : địa chủ nhỏ, địa chủ vừa và đ
ại địa chủ. Nam Kỳ
là nơi t
ập trung nhiều đại địa chủ, có 2.449 đại địa
chủ sở hữu từ 100 - 500 ha và 244 đ
ại địa chủ sở hữu
trên 500 ha. Nhìn chung, giai cấp địa chủ thời kỳ n
ày
chiếm khoảng 7% cư dân nông thôn, nhưng đã n
ắm
trong tay một nửa diện tích canh tác. Đến năm 1939,

Việt Nam có khoảng 6.500 địa chủ sở hữu trên 50
ha
ru
ộng đất, trong đó Nam Kỳ có 6.200, Bắc Kỳ có 200
và Trung Kỳ có 100 ngư
ời. Giai cấp “ngồi mát ăn bát
vàng" này đã tách khỏi quá trình sản xuất, sống b
ằng
việc phát canh thu tô (tô tiền, tô hiện vật v
à tô lao
dịch). Do sự nâng đỡ của chính quy
ền thực dân, giai
cấp địa chủ chiếm đại đa số trong cơ cấu chính quy
ền

làng xã (Hội đồng kỳ mục, Hội đồng tộc biểu, ngư
ời
đứng đầu các xã, tổng và hàng thôn). Đ
ồng thời, giai
cấp này còn có đại biểu của mình ở các cấp
chính
quyền bên trên như các Vi
ện Dân biểu, Hội đồng
quản hạt Rõ ràng, giai cấp địa chủ trở thành ch

dựa đáng tin cậy của chính quyền thực dân.
* Giai cấp nông dân là thành ph
ần chiếm tuyệt đại
đa số (khoảng 90% trong xã h
ội Việt Nam. Trong quá
trình sản xuất, dưới tác động của chương
trình khai
thác thuộc địa, giai cấp này đã chuyến biến sâu sắc v
à
có sự phân tầng rõ r
ệt : phú nông, trung nông, bần
nông và cố nông.
Phú nông là tầng lớp khá giả nhất trong giai c
ấp
nông dân, chiếm hữu một số ruộng đất tương đ
ối khá
nhưng chưa đủ để trở thành đ
ịa chủ, cũng tham gia
bóc lột bằng thuê nhân công, tuy v
ẫn trực tiếp tham

gia vào quá trình sản xuất.
Trung nông là tầng lớp có đủ ruộng đất và công c

sản xuất để tiến hành sản xuất nuôi sống gia đ
ình
mình; họ không bán sức lao động và c
ũng không có
khả năng tham gia bóc lột.
Bần nông là t
ầng lớp thiếu ruộng đất canh tác, thiếu
nông cụ. Để nuôi sống gia đình mình h
ọ phải lĩnh
canh ruộng đất, thuê mướn nông cụ sản xuất và ti
ền
vốn.
Cố nông là tầng lớp "không tấc đất cắm d
ùi" nghèo
khổ nhất bần cùng nhất trong giai c
ấp nông dân.
Nguồn sống chủ yếu của họ là l
ĩnh canh ruộng đất,
đi làm thuê, đi ở cho nhà giàu.
Giai cấp nông dân là giai cấp bị bóc lột và áp b
ức
nặng nề nhất bi thuế khóa và thu phen t
ạp dịch. Cuộc
sống của họ hết sức bấp bênh. Một bộ phận trong s

họ bị bần cùng hóa. Đề duy trì sự tồn tại của gia đ
ình,

họ phải ra thành ph
ố, hầm mỏ để kiếm công ăn việc
làm. Một số người may mắn tìm được nơi bán s
ức lao
động, trở thành công nhân, số khác ít may mắn h
ơn
quay trở về nông thôn, cam chịu cuộc sống c
ùng
quẫn, bế tắc.
* Giai công nhân Việt Nam ngày càng trở n
ên đông
đảo. Đến năm 1929, chỉ tính ri
êng công nhân trong
các doanh nghiệp của người Pháp đã là
221.050
người. Ngoài ra, có khoảng vài v
ạn công nhân lam
việc trong các doanh nghiệp của tư sản Việt Nam v
à
tư sản ngoại kiều, chưa kể số công nhân l
àm
theo mùa, theo thời vụ. Về số lư
ợng, giai cấp công
nhân Việt Nam chiếm trên 1 % dân số .Tỷ lệ đó l
à
nhỏ bé, nhưng một nư
ớc thuộc địa con số đó cũng
rất đáng kể.
Nhìn trên tổng thể, công nhân được phân bố tr
ên 2

vùng rõ rệt tuỳ theo điều kiện tự nhiên : mi
ền Bắc tập
trung công nhân công nghi
ệp, miền Nam tập
trung công nhân nông nghiệp. Đại bộ ph
ận công nhân
công nghiệp tập trung ở Hòn Gai, Hải Phòng, Hà N
ội
, Nam Định, Vinh, Sài Gòn, Chợ Lớn.
Điều kiện sống và làm vi
ệc của công nhân rất cực
khổ. Họ phải làm việc trung bình t
ừ 10 giờ đến 14
giờ / ngày với đồng lương rẻ mạt, thườ
ng xuyên
bị cúp phạp và bị đối xử bất nhân. Trư
ớc khi họ trở
thành công nhân, họ đã là người dân một nư
ớc nô lệ.
Vì thế, trong họ đã có sẵn mối thù dân t
ộc. Khi họ trở
thành công nhân, làm thuê cho một ông chủ n
ào đó,
bị giới chủ bóc lột, áp bức nặng nề, họ mang th
êm
một mối thù thứ hai – mối thù giai cấp. Mối th
ù dân
tộc có trước thôi thúc mối thù giai c
ấp chín sớm. Do
vậy, giai cấp công nhân Việt Nam s

ớm giác ngộ ý
thức giai cấp và nhanh chóng vươn lên n
ắm lấy ngọn
cờ giải phóng dân tộc.
* Giai cấp tiểu tư sản
Cùng với s
ự gia tăng của cuộc khai thác thuộc địa,
sự xuất hiện hệ thống thành thị kiểu ph
ương Tây và
nền giáo dục Pháp-Việt phát triển, giai cấp tiểu tư s
ản
ngày càng trở nên đông đảo. Nó đư
ợc kết hợp một
cách lỏng lẻo bởi ba bộ phận: trí thứ, tiểu th
ương và
thợ thủ công. Điểm chung của họ là thi dân, s
ở hữu
một ít tư liệu sản xuất (vốn, chất xám).
Trí thức (trong đó có học sinh, sinh viên) là b
ộ phận
quan trọng nhất của giai cấp tiểu tư s
ản. Đến năn
1929, đội ngũ trí thức đã lên t
ới gần 40 vạn
người (12.000 giáo viên, 335.545 h
ọc sinh, 23.000
viên chức và hàng trăm sinh viên các trường đ
ại học,
cao đẳng và dạy nghề).
Tiểu thương: Biên độ của đội ngũ này khá r

ộng, từ
người buôn thúng bán mẹtt đến những ngư
ời có cửa
hàng, cửa hiệu nhưng vốn liếng (doanh só) chưa

đạt tới ngưỡng một nhà tư sản. Đội ngũ những ngư
ời
buôn bán nhỏ có đóng thuế môn bài thường xuy
ên là
130.000 người.
Thợ thủ công: Vào gi
ữa những năm 30 của thế kỷ
này, có khoảng 21,6 thợ thủ công chuyên nghi
ệp,
đông đảo nhất là Bắc Kỳ. So với hai bộ phận trên, b

phận này có đời sống bấp bênh nh
ất bởi với sự xuất
hiện các doanh nghiệp l
ớn đe doạ thủ công nghiệp
phá sản.
* Giai cấp tư sản
Tư sản Việt Nam,, sau chi
ến tranh, gặp những điều
kiện thuận lợi nên hoạt động kinh doanh của họ c
àng
trở nên sôi nổi hơn, đa dạng hơn. H
ọ kinh
doanh trong h
ầu hết các lĩnh vực kinh tế, từ xay xát,

nhuộm. dệt, in ấn, vận tải đến sản xuất nư
ớc mắm,
đường, xà phòng, sơn, đồ gốm v.v Một số đ
ã có
trong tay một sản nghiệp lớn như m
ỏ, đồn điền, công
ty vận tải sông biển, các công ty thương m
ại Cuối
những năm 1920 tư sản Việt Nam đã gia tăng v
ề số
lượng, đã đạt từ con số 20.000 ngư
ời, chiếm khoảng
0,1% dân số cả nước. Tư sản Việt Nam đã từ m
ột
tầng lớp trở thành một giai cấp xã h
ội thực sự sau
Chiến tranh thế giới thứ nhất. Do đi
ều kiện kinh
doanh, giai cấp tư sản Việt Nam tự phân thành hai b

phận : tư sản mại bản và tư sản dân tộc.
Tư sản mại bản là một bộ phận những nhà đ
ại lý cho
tư bản nước ngoài, những nhà thầu khoán và nh
ững
tư sản hùn vốn kinh doanh với tư sản Pháp và nh
ững
nhà doanh nghiệp có quan hệ buôn bán với nư
ớc
ngoài. Vì lợi ích kinh tế của bộ phận này g

ắn chặt với
lợi ích kinh tế của tư bản thực dân.
Ngoài bộ phận trên, phần lớn các nhà tư s
ản Việt
Nam đều là tư sản dân t
ộc. Họ có mặt trong hầu hết
các lĩnh vực kinh tế, đặc biệt trong thương nghi
ệp.
Nhiều xí nghiệp kinh doanh của họ đư
ợc mở rộng
quy mô sản xuất, đầu tư về kỹ thuật như xư
ởng sản
xuất sơn của Nguyễn Sơn Hà, công ty v
ận tải sông
biển của Bạch Thái Bưởi, xưởng dệt của L
ê Phát
Vĩnh. Nhiều đồn điền ở Nam Kỳ rộng
hàng nghìn
mẫu thu hút hàng trăm công nhân. Sau chi
ến tranh,
xuất hiện những cơ sở kinh doanh mới nh
ư Nhà máy
gạch Hưng Ký ở Đáp Cầu (Bắc Ninh), xí nghi
ệp dệt
Vĩnh An ở Huế. Lợi ích kinh tế của bộ phận tư s
ản
dân tộc không đồng nhất với l
ợi ích kinh tế của chính
quyền thực dân. Họ bị chèn ép từ nhiều phía, từ t
ư

sản Pháp đến các nhà tư sản ngoại kiều. Vì th
ế, để tồn
tại và phát triển, bộ phận này đã c
ố kết với nhau
trong kinh doanh và do đó ít nhiều họ có tinh th
ần
dân tộc.
Nhìn chung, sau Chi
ến tranh thế giới thứ nhất, giai
cấp tư sản Việt Nam lớn mạnh và trưởng thành. Đ
ại
diện cho thế lực kinh tế của giai cấp xã hội đang l
ên
này là những nhà doanh nghiệp sáng giá nh
ư Trương
Văn Bền, Bạch Thái Bưởi;, Nguyễn S
ơn Hà, Lê Phát
Vĩnh.
Dẫu vậy, giai cấp tư sản Việt Nam còn r
ất ít về số
lượng cũng như v
ốn liếng. Tổng số vốn kinh doanh
của họ chỉ bằng khoảng 5% số vốn của tư bản nư
ớc
ngoài. Tư s
ản Việt Nam chủ yếu kinh doanh trong
thương nghiệp, ít kinh doanh trong khu v
ực sản xuất.
Trên thương trường, giai cấp tư s
ản Việt Nam

lại đụng độ không cân sức với hai đối thủ : tư s
ản
Pháp và tư sản Hoa kiều.
b) Sự hình thành hệ thống đô thị kiểu phương Tây
Quá trình hình thành hệ thống thành thị kiểu ph
ương
Tây ở nước ta gắn chặt với công cuc khai thác thu
ộc
địa lần thứ nhất, được đẩy mạnh và hoàn thiện
trong
cuộc khai thác thuộc địa lần thứ hai. Trong nh
ững
năm 20 và 30 của thế kỷ này, một hệ thống thành th

kiểu phương Tây đã hình thành v
ới 3 cấp độ:
Thành phố cấp 1 : (Sài Gòn, Hà Nội, Hải Ph
òng) ;
thành phố cấp 2: (Hải Dương, Nam Định, Vinh, Đ
à
Nẵng, Chợ Lớn) ; thành phố cấp 3 (những thị xã tr
ực
thuộc tỉnh như Bắc Ninh, Hưng Yên, Đồng Hới ) v
à
dưới đó là hàng trăm thị trấn và thị tứ. Cùng v
ới sự
l
ớn mạnh của các đô thị, số thị dân tăng nhanh. Năm
1928, thành phố Hà Nội đã có 130.000 dân, Huế -


41.600 dân, Sài Gòn - 125.000 dân, Cho đ
ến những
năm 1930, dân số thành phố đã chiếm 8% -
10% dân
số cả nước.
Trong quá trình sinh tồn, thị dân đã t
ạo ra một lối
sống riêng, một phong tục tập quán riêng, vừa k
ế
thừa những giá trị truyền thống, nhưng đ
ồng thời
cũng có nh
ững nét khác với lối sống của nông dân.
Một hệ thống thành thị phát triển, thị dân trở n
ên
đông đúc là nh
ững tiền đề, những điều kiện để tiếp
nhận văn hóa phương Tây. T
ừ đó, trong các dạng
thức sinh hoạt chính trị và văn hóa chúng ta m
ới có
các đảng phái chính trị, các nhà xuất bản, các d
òng
báo chí, các thể loại văn học nghệ thuật mới như k
ịch
nói, điện ảnh xuất hiện những quan niệm m
ới về bố
trí không gian sống và nghỉ ngơi trong kiến trúc
vv
Tóm lại, với sự hình thành và hoàn thi

ện một hệ
thống thành thị kiểu phương Tây, trong xã hội Vi
ệt
Nam đã xu
ất hiện nền văn minh đô thị, một nền văn
minh tiên tiến thúc đẩy xã hội Việt Nam vươn lới.
4. Tình hình văn hóa tư tưởng
Cùng với sự đầu tư khai thác thu
ộc địa gia tăng sau
chiến tranh, đời sống kinh tế và xã hội nư
ớc ta có
nh
ững chuyển biến mạnh mẽ. Một nền kinh tế
với kiến trúc đa ngành đã xu
ất hiện. Một hệ thống đô
thị đã hình thành và phát triển. M
ột nền giáo dục
Pháp – Việt, sau nhiều lần cải cách và tìm ki
ếm
những mô hình hợp lý, đã phát huy tác dụng. Các c
ơ
sở in ấn, xuất bản đã xuất hiện ở các thành ph
ố lớn.
Hàng loạt những tờ báo, tạp chí chữ Pháp và Qu
ốc
ngữ đã ra đời. Đó chính là nh
ững tiền đề để tiếp nhận
những trào lưu tư tưởng mới, những thành t
ựu khoa
học - kỹ thuật, những loại hình vãn học – ngh

ệ thuật
phương Tây tràn vào. Chính vì v
ậy, thập kỷ 20 trong
lịch sử nước ta được xem như là giai đo
ạn giao thoa,
đan xen giữa các giá trị văn hoá truyền thống v
à văn
hoá ngoại nhập, giữa n
ền văn hoá thực dân, nền văn
hoá chính thống và n
ền văn hoá mới, văn hoá tiến bộ,
cách mạng định hình. Đó chính là cu
ộc chiến đấu
không tuyên bố trên mặt trận văn hóa tư tư
ởng.
Chính quyền thực dân sớm có ý thức s
ử dụng văn hoá
như một thứ vũ khí được quảng bá cho tư tư
ởng
"Pháp – Việt đề huề", "Pháp - Nam h
ợp tác", đang
tạo ra một bầu không khí chính trị ổn định có l
ợi cho
việc gọi vốn đầu tư vào Đông Dương. Nh
ằm mục
đích đó Pháp đã cho phép Phạm Quỳnh ra tờ
Nam
Phong tạp chí 1917) và cho lập Hội Khai trí Ti
ến
Đức (1919) để tập hợp lực lượng trong giới thư

ợng
lưu. Trên các phương tiện thông tin đ
ại chúng lúc đó
xuất hiện những bài vi
ết của các học giả thân Pháp
tán dương chủ trương "Pháp-việt đề huề", tr
ình bày
các chủ thuyết cai trị như thuyết "Trực trị" và thuy
ết
"Quân chủ lập hiến". Cùng với việc tr
ên, báo chí
thực dân đã bắt đầu tung ra những bài vi
ết bôi nhọ
chủ nghĩa cộng sản, lãnh tụ LêNin và Cách m
ạng
tháng Mười Nga. Nói một cách khác, trên bình di
ện
tư tưởng, báo chí thực dân đã tiến hành chủ ngh
ĩa
chống cộng khi ở xứ này chưa có chủ nghĩa c
ộng sản,
thậm chí là mầm mống.
Đ
ối lập với nền văn hoá thực dân, văn hoá nô dịch
đó là nền văn hoá mới ti
ến bộ, cách mạng. Khởi đầu
là dòng báo chí tiến bộ với tờ báo
La Cloche
fêlée
(Chuông rạn) và L’Annam (Nư

ớc Nam) của
Nguyễn An Ninh và Phan Văn Trư
ờng. Tiếp đó, xuất
hiện các Thư xã (Nhà xuất bản) Sài Gòn, Huế, H
à
Nội; nhờ đó mà các tác phẩm văn học mới đư
ợc dân
thành th
ị đón nhận. Với sự xuất hiện tác phẩm Tố
Tâm của Hoàng Ngọc Phách (1925), lần đầu tiên

trên văn đàn nước ta, lối kết cấu theo chương h
ồi
đư
ợc thay bằng lối kết cấu theo quy định luật tâm lý,
lễ giáo phong kiến bị đả kích, tự do cá nhân đư
ợc đề
cao. Năm 1922 vở kịch nói đầu tiên Chén thu
ốc độc
của Vũ Đình Long được công diễn thành công t
ại
Nhà hát lớn Hà N
ội. Tiếp đến, Nguyễn Hữu Kim với
Bạn và vợ, Vi Huyền Đắc với Hoàng M
ộng Điệp,

×