Tải bản đầy đủ (.pdf) (19 trang)

Văn minh người Việt: Những đời sống bị lãng quên pdf

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (843.23 KB, 19 trang )

Văn minh người Việt: Những đời sống bị lãng
quên
Thứ Sáu, 22/04/2011, 11:21 SA | Lượt xem: 133
Bảo tàng không chỉ lưu giữ quá khứ, các thông điệp
của nó đều hướng về hiện tại và tiềm ẩn sức mạnh
phát triển tương lai
Bảo tàng không chỉ lưu giữ quá khứ, các thông điệp
của nó đều hướng về hiện tại và tiềm ẩn sức mạnh
phát triển tương lai. Kết thúc mười năm đầu của thế
kỷ mới, việc đề xuất xây dựng bảo tàng nông nghiệp
Việt Nam đầu tiên ở đồng bằng sông Cửu Long
của TS Lê Văn Bảnh - giám đốc viện lúa miền Nam
và bảo tàng càphê thế giới của Đặng Lê Nguyên Vũ -
tổng giám đốc công ty cổ phần Trung Nguyên là
những gợi mở cần suy nghĩ.



Thiếu nữ trong trang phục Bắc Trung Nam ở Một thoáng
Việt Nam, Củ Chi, TP.HCM.
Văn hoá sức mạnh mới cho kinh tế
Các nước Âu – Mỹ, Nhật, Hàn Quốc, Singapore, Thái
Lan, Trung Quốc… đều có rất nhiều bảo tàng lớn nhỏ
khác nhau. Có bảo tàng dân tộc học hay mỹ thuật rất
vĩ đại nhưng cũng có bảo tàng về các ngành sản xuất
truyền thống như lịch sử xe hơi, kỹ thuật in, internet,
kỹ thuật truyền thông, máy tính, điện ảnh, khoa học
kỹ thuật, thậm chí là bảo tàng sôcôla, phômai, sữa…
Không phải vì họ muốn phô trương sức mạnh của
mình, mà có lẽ họ muốn tôn vinh tri thức của nhân
loại. Bảo tàng chính là nơi vun đắp gốc rễ cho lĩnh


vực kinh tế, cho sản phẩm thông qua kích thích óc tò
mò, trí tưởng tượng, năng lực sáng tạo, và trên hết,
tình yêu con người, yêu thiên nhiên, tựu trung lại là
văn hoá. Tại Seoul (Hàn Quốc), có một bảo tàng tư
nhân nhỏ trưng bày sản phẩm từ rơm rạ: các loại dép,
áo, những đồ chơi của trẻ em, các vật dụng khác.
Tương tự, bảo tàng kim chi, một món ăn quốc hồn
quốc tuý, trưng bày quy trình trồng các loại rau, cách
thu hoạch, cách chế biến món ăn từ kim chi, các loại
đồ gốm liên quan… Bảo tàng còn chiếu phim về cách
thức làm và sử dụng sản phẩm rất sinh động, hấp dẫn.
Một cách quảng bá về văn hoá Hàn Quốc rất hiệu
quả, thu hút khá nhiều khách tham quan. Nhiều du
khách đến xem đã mua các sản phẩm tại bảo tàng.
Việt Nam có thể lập rất nhiều bảo tàng chuyên sâu
cho một sản phẩm đã có thương hiệu về kinh tế để
tạo dựng thương hiệu về văn hoá như thế. Cách đây ít
lâu, cuộc trưng bày và trình diễn về nghề đan thuyền
ở huyện Yên Hưng, Quảng Ninh, bên cạnh việc tôn
vinh một nghề thủ công truyền thống, còn giúp người
thợ thủ công tự tin, sáng tạo hơn để tìm ra những mẫu
mã mới thích ứng nhu cầu thị trường. Lập tức sau đó
có nhiều người đến đặt hàng hơn. Các tour du lịch bắt
đầu quan tâm và đưa những làng nghề này vào tuyến
tham quan. Thu nhập của người dân tăng đáng kể,
văn hoá không mất đi mà được lưu truyền, làm mới.
Hay đối với gốm Phù Lãng cũng vậy, sau các lớp tập
huấn làm gốm cho trẻ em, những người thợ gốm giao
lưu cùng hoạ sĩ chuyên nghiệp, gốm Nhung ở bảo
tàng Dân tộc học đã có nhu cầu tự đổi mới. Từ chỗ

phải bỏ nghề đi kiếm ăn xa nay họ đã trở về, sản xuất
mẫu mã mới. Gốm Phù Lãng hồi sinh từ đó.



Sàng gạo.
Bảo tàng lúa gạo cái nôi của văn minh lúa nước
Việt Nam là quốc gia có nền văn minh lúa nước
phong phú nhất với tư cách không chỉ là vựa lúa của
nhân loại mà còn là cái nôi xa xưa nhất của lúa nước.
Tại IRRI (viện Nghiên cứu lúa gạo quốc tế ở
Philippines) có một bảo tàng các giống lúa thế giới,
giống lúa của Việt Nam là cổ xưa nhất, và nhiều
giống lúa nước nhất. Những cây lúa ma, lúa nổi, lúa
trời đến lúa nước ở đồng bằng sông Cửu Long là câu
chuyện rất dài về quá trình khai hoang mở cõi.
Những cánh đồng lúa ấy đã nuôi sống dân tộc này,
đang và sẽ làm sứ mệnh vô cùng quan trọng đối với
cuộc sống con người, với văn minh nhân loại khi góp
phần bảo đảm an ninh lương thực toàn cầu một cách
bền vững trong tư cách quốc gia xuất khẩu gạo thứ
hai thế giới… Có một bảo tàng lúa gạo sống động,
phong phú hàm chứa những giá trị văn hoá, thông
điệp nhân văn, thì giá trị của hạt lúa Việt Nam sẽ
được cộng thêm rất nhiều. Đó là chưa kể đến một thế
giới sản phẩm chế biến từ lúa gạo độc đáo, như các
loại bún, các loại bánh, các loại rượu cùng rất nhiều
sản phẩm khác làm từ rơm, rạ, với các công cụ từ thô
sơ đến các phương tiện chế biến hiện đại ẩn chứa bên
trong lối sống, phong tục tập quán gắn liền với sinh

thái thiên nhiên… Một bảo tàng lúa gạo như thế sẽ là
một bảo tàng có sức hội tụ rất lớn đối với hàng tỉ
người mỗi bữa bưng bát cơm lên. Ai ơi bưng bát cơm
đầy, sẽ trở nên tha thiết lắm.
Ở nước ta chỉ có Lê Quý Đôn viết kỹ về nhiều ngành
nghề cổ và giống má. Đó cũng chính là nguồn, là cơ
sở tốt nhất để chúng ta có thể tham khảo cho một bảo
tàng lúa gạo trong tương lai.
Ngày nay, mỗi lần đi qua đại lộ Đông Tây, nhìn bến
Bình Đông thay da đổi thịt từng ngày, những nhà
máy xay xát xưa, những kho hàng rất đặc trưng của
quốc gia xuất khẩu gạo từ những năm 30 của thế kỷ
trước đã biến mất, thành những ngôi nhà cao tầng đồ
sộ mà thấy tiếc bâng quơ một cái gì đó đã mất. Giá
như nơi đây có một bảo tàng lúa gạo để ngày ngày,
những đoàn khách đến, để trên bến dưới thuyền như
nó đã từng…
Bảo tàng càphê từ một giấc mơ

Tôi nghĩ với các dân tộc
ở Tây Nguyên, kể câu
chuyện càphê (và cao su,
hồ tiêu, điều, các cây
công nghiệp khác) không
thể tránh khỏi là một câu
chuyện buồn: câu chuyện
của mất đất, câu chuyện
của phá rừng, câu chuyện
mất đi không gian sinh
thái nhân văn ngàn đời

của họ. Chừng nào có thể
bao quát được càng nhiều
khía cạnh, kể cả những
khoảng tối và cay đắng
trong lịch sử thực dân và
quá trình mở mang thời
hiện đại trên mảnh đất
Đâu chỉ lúa gạo, Việt
Nam cũng là quốc gia sản
xuất và xuất khẩu càphê
thứ hai thế giới. Càphê
Việt Nam được trồng
nhiều nhất ở Tây Nguyên,
vùng đất giàu bản sắc văn
hoá, tâm linh. Chính bản
sắc tâm linh này tạo nên
một không gian văn hoá
càphê phong phú, huyền ảo. Ông Đặng Lê Nguyên
Vũ cho biết: “Một bảo tàng càphê thế giới phải hội tụ
những thế mạnh về trí tuệ, tinh thần, triết lý, lối sống,
văn hoá liên quan đến càphê cùng thế mạnh bản thân
chất lượng sản phẩm càphê… Trung Nguyên nhiều
năm nay đã tập hợp nhiều chuyên gia lịch sử, kinh tế,
văn hoá hàng đầu Việt Nam để xây dựng dự án bảo
tàng càphê thế giới. Chúng tôi đã gặp gỡ nhiều kiến
trúc sư nổi tiếng của Nhật Bản, Tây Ban Nha, Anh,
Tây Nguyên, tôi tin chắc
rằng một bảo tàng càphê
sẽ không chỉ mang thế
giới về với Tây Nguyên,

mà còn mang được Tây
Nguyên ra với thế giới.
GS Nguyễn Xuân Huy
nguyên giám đốc bảo
tàng Dân tộc học
Singapore cùng các kiến trúc sư hàng đầu Việt Nam
để xây dựng, quy hoạch, thiết kế bảo tàng. Chúng tôi
muốn bảo tàng này mang tính vĩnh cửu và có chất
liệu bản địa, vì vậy nhiều năm nay đã tìm kiếm, tập
kết hàng vạn khối đá núi lửa khổng lồ ở khắp Tây
Nguyên để chuẩn bị xây bảo tàng trên khuôn viên
rộng 50ha. Chúng tôi sưu tập, mua lại nhiều bộ sưu
tập về văn hoá Tây Nguyên – cái nôi hàm chứa hồn
đất, hồn nước, hồn người, hồn nghề cho càphê Tây
Nguyên, và mới đây chúng tôi đã được nhượng lại cả
một bảo tàng càphê ở Đức với hơn 10.000 hiện vật cổ
trên thế giới liên quan đến càphê ”
Từ một giấc mơ rất đẹp để trở thành hiện thực là một
quãng đường dài với không ít khó khăn.
Bảo tàng gốm sứ viết nên một câu chuyện lịch sử

Có thể nói qua nhiều thế
kỷ, gốm sứ Việt Nam đã
trở thành “sứ giả” giao
thương với quốc tế, các
bộ sưu tập gốm sứ Việt
Nam không thiếu trong
các bảo tàng nước ngoài và các nhà sưu tập tư nhân
trong nước, nhưng một bảo tàng gốm sứ quốc gia thì
chưa hề có. Muốn xây dựng bảo tàng gốm sứ cần hai

việc: hiện vật và nghiên cứu. Hiện vật thì các bảo
tàng trong nước không thiếu, có thể mời tư nhân đem
sưu tập của mình thường xuyên bày thành từng
chuyên đề. Việc này các bảo tàng thế giới vẫn làm, vì
không bảo tàng nào có đủ. Sự trân trọng với tài sản
văn hoá của tư nhân là quan trọng. Còn nghiên cứu
khó hơn nhiều, phải viết được lịch sử gốm sứ Việt
Nam, xác định hiện vật dưới góc độ khảo cổ học kỹ
lưỡng. Rồi đến các vấn đề tạo dáng, kỹ thuật, lò
nung… Các sách tốt về gốm sứ Việt Nam đều do
người nước ngoài làm, và họ bán rất chạy. Gốm sứ cổ
Việt Nam nổi tiếng trên thế giới như một hình ảnh
văn minh. Các sách trong nước thì chủ yếu in ảnh và
lèo tèo vài trang giới thiệu.
Ông Lý Ngọc Minh, tổng giám đốc công ty gốm sứ
Minh Long thổ lộ: “Bản thân tôi rất mê nghề, mê tìm
hiểu, sưu tập, học hỏi mò mẫm để gìn giữ một bảo
tàng cho dòng tộc. Câu chuyện về gốm sứ của riêng
tôi xuất phát từ dòng dõi nhiều đời của gia đình, lưu
lạc khắp nơi, để rồi trụ lại ở mảnh đất Bình Dương.
Nghề gốm rất lạ, càng làm càng thấy khó, càng thấy
mình dốt, vì nó rất huyền bí, không thể nào đoán
trước được. Chính vì vậy khi nhìn một tác phẩm gốm
xưa, tôi như thể được đọc một cuốn sách, vô cùng thú
vị. Bên cạnh một bảo tàng riêng, tôi nghĩ nhiều đến
bảo tàng gốm sứ Bình Dương, một vùng đất còn đầy
đủ cơ sở để làm một bảo tàng sống, với những lò gốm
cổ và hiện đại hài hoà, để có thể tái tạo khung cảnh
làm gốm từ xưa đến nay, tạo nên bức tranh sinh động
cho văn hoá một vùng đất. Tôi đang đề xuất với lãnh

đạo tỉnh Bình Dương để làm cách nào thúc đẩy sớm
hơn cho việc xây dựng bảo tàng gốm sứ tại địa
phương.

Đi nhiều, tôi nhận thấy
đất nước nào biết lưu giữ
bảo tồn lịch sử, văn hoá,
thì kinh tế càng phát
triển. Một quốc gia biết
trân trọng văn hoá thì
càng văn minh. Thương
hiệu của một quốc gia
không chỉ được xác định bởi xe hơi, nhà lầu, con số
tăng trưởng kinh tế… mà phải biết tạo ra những sản
phẩm có giá trị, nhiều bảo tàng chuyên sâu về nghề,
về ngành sẽ làm tăng giá trị vô hình sản phẩm của

Vê đất làm gốm Bát Tràng.

mình. Điều đó rất cần những doanh nhân có tâm, có
trình độ hiểu biết, đam mê với văn hoá dân tộc. Hơn
ai hết, những người lãnh đạo đất nước phải ý thức
được điều ấy, và có những chính sách đúng đắn, khơi
gợi, để doanh nhân có điều kiện đóng góp tài lực, trí
lực của riêng mình cho đại cuộc”.
Một dân tộc biết khát vọng và xác tín nội tâm thì mới
giữ được di sản và phát triển văn hoá. Và đến một lúc
nào đó, chính nền văn hoá di sản, trong đó có các bảo
tàng nghề, sẽ làm nền cho nền kinh tế phát triển.



Hình ảnh con bò với cái bừa còn sót lại ở làng cổ Đường
Lâm.



Những sản phẩm ở làng gốm
Bát Tràng.
Thiếu nữ gánh lúa.


Hình ảnh giã gạo xưa được phục dựng ở Một thoáng Việt
Nam, Củ Chi.


Thiếu nữ đang têm trầu. Hình
ảnh được phục dựng.
Giê lúa bằng gió.
bài: hương xuân, ảnh: Nguyệt Vy

Là người nghiên cứu nghệ thuật cổ, tôi nhận thấy hầu
hết hiện vật của văn minh nông nghiệp sắp biến mất,
nên dành một thời gian dài nghiên cứu về cái đó. Khi
làm tôi mới biết là đụng vào một việc quá lớn. Nên
cũng mới viết tạm một quyển Văn minh vật chất của
người Việt, với các phần đi lại, xe cộ thuyền bè,
giống má, ăn mặc, nông cụ, đồ dùng… Tôi nghĩ nếu
muốn giới thiệu văn minh lúa nước Việt Nam, cần
bắt đầu như thế, và giải thích dần các biến đổi của
chúng trong đời sống. Người ta hay viết lịch sử như

là lịch sử chiến tranh và chính trị, mà lãng quên đời
sống thường ngày. Lịch sử xây dựng, sinh hoạt cũng
rất quan trọng. Nếu có những cuốn sách chẳng hạn về
đời sống thường ngày của người Đông Sơn, người
thời Lý - Trần… thì rất thú vị. Ta có thể tìm thấy loại
sách đó ở phương Tây, ví dụ đời sống thường ngày
của người La Mã, thời Trung cổ…
phan cẩm thượng

×