Tải bản đầy đủ (.pdf) (8 trang)

Cao trào kháng Nhật cứu nước pps

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (135.86 KB, 8 trang )

Cao trào kháng Nhật cứu
nước


Cuối năm 1944–đầu năm 1945, bọn phát xít liên
tiếp thất bại trên nhiều mặt trận. Tháng 8 năm
1944, thủ đô Pa ri được giải phóng. Chính phủ
kháng chiến của tướng Đờ Gôn lên cầm quyền. Ở
Đông Dương, lực lượng Pháp theo phái Đờ Gôn
hoạt động ráo riết, đợi thời cơ lật đổ quân Nhật,
giành lạị Đông Dương.
Cuối năm 1944–đầu năm 1945, bọn phát xít liên tiếp
thất bại trên nhiều mặt trận. Tháng 8 năm 1944, thủ
đô Pa ri được giải phóng. Chính phủ kháng chiến của
tướng Đờ Gôn lên cầm quyền.
Ở Đông Dương, lực lượng Pháp theo phái Đờ Gôn
hoạt động ráo riết, đợi thời cơ lật đổ quân Nhật, gi
ành
lạị Đông Dương. Biết rõ ý đồ của Pháp, Nhật ra tay
trước. Tối 9-3-1945, Nhật tiến hành cuộc đảo chính
lật đổ Pháp trên toàn Đông Dương. Cũng trong đêm
đó. Hội nghị mở rộng Ban chấp hành Trung ương
Đảng họp tại Đình Bảng (Bắc Ninh). Ngày 12-3, hội
nghị ra chỉ thị Nhật-Pháp bắn nhau và hành động của
chúng ta. Bản Chỉ thị đã vạch rõ cuộc đảo chính của
Nhật đã tạo ra một cuộc khủng hoảng chính trị sâu
sắc, nhưng điều kiện cho một cuộc tổng khởi nghĩa
chưa chín muồi, đối tượng của cách mạng đã thay
đổi. Phát xít Nhật trở thành kẻ thù chính của nhân
dân Đông Dương. Do đó, khẩu hiệu "Đánh Pháp,
đuổi Nhật" không còn thích hợp, được thay bằng


khẩu hiệu "Đánh đuổi phát xít Nhật" và các hình th
ức
đấu tranh cũng thay đổi "có thể bao gồm từ hình thức
bất hợp tác, bãi công, bãi thị, cho đến những hình
thức cao hơn như biểu tình thị uy vũ trang du kích
và sẵn sàng chuyển qua hình thức Tổng khởi nghĩa
một khi có đủ điều kiện.
Sau khi độc chiếm Đông Dương, phát xít Nhật liền
thi hành chính sách mua chuộc, lừa bịp kết hợp với
những chính sách đàn áp, khủng bố tàn bạo.
Về chính trị, phát xít Nhật bày trò trao trả "độc lập"
cho chính phủ bù nhìn Trần Trọng Kim nhưng vẫn
giữ nguyên bộ máy cai trị của Pháp, thay người Nhật
vào vị trí người Pháp. Các đảng phái chính trị thân
Nhật nhân dịp mọc ra như "nhím gặp mưa rào". Phát
xít Nhật sử dụng bộ máy tuyên truyền đồ sộ để quảng
bá cho tinh thần bài Pháp, sợ Nhật, phục Nhật. Mặt
khác, chúng huy động lực lượng quân sự tấn công
vào các chiến khu, các cơ sở cách mạng.
Về kinh tế, chúng chiếm các cơ sở kinh tế của Pháp,
in giấy bạc tung ra thị trường, vơ vét nguyên liệu,
hàng hóa, lương thực và trắng trợn tước đoạt tài sản
của nhân dân ta ; làm cho nền kinh tế của ta bị kiệt
quệ, cuộc sống của mọi tầng lớp nhân dân điêu đứng,
cùng quẫn. Giá gạo ở Bắc Kỳ vào tháng 10-1944 còn
là 1150 đồng/ tạ, thì đến tháng 2-1945 đã là 1.000
đồng/ tạ. Tĩnh trạng đó đã dẫn đến nạn đói khủng
khiếp năm 1945, làm chết gần 2 triệu người.
Trước thực trạng đó, Đảng đã đề ra khẩu hiệu "Phá
kho thóc, giải quyết nạn đói và coi đó là khẩu hiệu

chính để phát động phong trào chống Nhật cứu nước,
đáp ứng nguyện vọng khẩn thiết của nhân dân, nên
khẩu hiệu có tính chất kinh tế ấy đã dấy lên một cao
trào chính trị sâu rộng chưa từng thấy. Hàng vạn
quần chúng đói khổ xuống đường, xông vào các kho
thóc của giặc Nhật. Từ cao trào đó nhiều địa phương
đã giành được chính quyền. Phong trào diễn ra sôi
nổi ở các tỉnh đồng bằng, trung du Bắc Bộ và các t
ỉnh
Bắc Trung Bộ nơi đã diễn ra nạn đói.
Đồng thời với phong trào phá kho thóc của Nhật cứu
đói, làn sóng khởi nghĩa từng phần dâng cao, cuốn
trôi chính quyền địch ở nhiều địa phương. Sau ngay
Nhật đảo chính Pháp, Việt Minh đã lãnh đạo quần
chúng nổi dậy ở Hiệp Hoà (Bắc Giang), Tiên Du
(Bắc Ninh), Bàn Yên Nhân (Hưng Yên). Ở Quảng
Ngãi, tù chính trị nhà giam Ba Tơ đã khởi nghĩa, lập
chiến khu.
Tại Việt Bắc, Giải phóng quân và C
ứu quốc quân đẩy
mạnh chiến tranh du kích, đánh chiếm nhiều đồn bốt,
giải phóng nhiều vùng, mở rộng địa bàn hoạt động.
Tình hình diễn biến hết sức mau lẹ, có lợi cho phía
cách mạng. Giữa tháng 4- 1945, Hội nghị quân sự
cách mạng Bắc Kỳ họp tại Hiệp Hòa (Bắc Giang).
Hội nghị đặt nhiệm vụ quân sự lên trên tất cả các
nhiệm vụ quan trọng và cần kíp lúc này, quyết định
phát triển lực lượng vũ trang, thống nhất các lực lực
lượng vũ trang đã có thành Việt Nam Giải phóng
quân, xây dựng các chiến khu kháng Nhật và c

ử ra ủy
ban quân sự cách mạng Bắc Kỳ.
Ngày 16-4-1945, Tổng bộ Việt Minh ra chỉ thị tổ
chức Ủy ban dân tộc giải phóng các cấp. Cấp cao
nhất gọi là ủy ban dân tộc giải phóng Việt Nam.
Ngày 15-5-1945, Việt Nam tuyên truyền giải phóng
quân và Cứu quốc quân được thống nhất thành Việt
Nam Giải phóng quân.
Ngày 4-6-1945, khu giải phóng gồm 6 tỉnh Cao
Bằng, Bắc Cạn,Lạng Sơn, Hà Giang, Thái Nguyên,
Tuyên Quang ra đời. Tân Trào (Tuyên Quang) được
chọn làm Thủ đô khu giải phóng.Trong khu giải
phóng, các ủy ban nhân dân cách mạng do dân cử ra
đã thi hành 10 chính sách của Việt Minh nhằm xây
dựng khu giải phóng thành căn cứ vững mạnh về
chính trị, quân sự, kinh tế văn hóa, làm bàn đạp giải
phóng toàn quốc. Các chiến khu khác như chiến khu
Vần - Hiền Lương (Yên Bái, Phú Thọ), chiến khu
Trần Hưng Đạo (Đông Triều, Quảng Ninh) v.v lần
lượt ra đời.
Hoảng sợ trước sự phát triển mạnh mẽ, nhanh chóng
của cách mạng, xít Nhật điên cuồng mở các cuộc càn
quét, tiến công vào các vùng giải phóng. Quân giải
phóng, các đội tự vệ, du kích đã đánh trả quyết liệt,
bảo vệ căn cứ địa cách mạng, tiêu biểu là các trận
đánh bảo vệ chiến khu Vần- Hiền Lương và chiến
khu Trần Hưng Đạo.
Tại các đô thị, phong trào đấu tranh của công nhân,
học sinh, viên chức tiểu tư sản dâng cao. Tổ chức
công nhân cứu quốc được xây dựng ở nhiều xí

nghiệp.
Cao trào kháng Nhật cứu nước sôi sục trên cả nước.
Tình thế cách mạng trực tiếp đang tới gần .

Nguồn:Nguyễn Quang Ngọc 2006, Chương X – Việt
Nam trong những năm 1930-1945, Tiến trình Lịch sử
Việt Nam, Hà Nội, Giáo Dục, Tr.292-294.

×