Tải bản đầy đủ (.pdf) (14 trang)

TRIỆU CHỨNG THỰC THỂ BỆNH TIM MẠCH – Phần 1 docx

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (182.62 KB, 14 trang )

TRIỆU CHỨNG THỰC THỂ BỆNH TIM MẠCH
– Phần 1

Để phát hiện các triệu chứng thực thể bệnh tim mạch, người thầy thuốc phải khám
bệnh nhân một cách toàn diện: khám toàn thân, khám tim, khám động mạch và
tĩnh mạch. Từ đó phát hiện được các triệu chứng do bệnh lý tim mạch gây ra và
ngược lại, các triệu chứng tim mạch là biểu hiện của các bệnh lý các cơ quan
khác.

1. Khám tồn thân.

1.1. Khám tồn trạng:

+ Hình dáng cơ thể:
- Nhỏ bé so với tuổi thường gặp ở người có bệnh tim bẩm sinh hoặc bệnh tim mắc
phải từ nhỏ (như bệnh van 2 lá).

- Cao gầy, tay dài tới gối, các ngón tay và chân dài, lồng ngực lõm lịng thuyền
hoặc nhơ ra như ngực gà là hình dáng của người bệnh có hội chứng Marfan.


- Béo, gầy: đánh giá nhanh qua chỉ số khối cơ thể (Body mass index: BMI). Béo là
khi BMI > 23kg/m2 (theo quy ước của Hiệp hội Đái tháo đường - bệnh chuyển
hố châu Á). Người béo thường hay có tăng huyết áp, rối loạn mỡ máu, tăng acid
uric, rối loạn chuyển hoá đường, kháng insulin... (hội chứng chuyển hoá: hội
chứng X). Gầy là khi BMI < 19kg/m2, thường gặp ở người có nhiễm khuẩn kéo
dài như viêm màng trong tim nhiễm khuẩn; người mắc bệnh tim mạch một thời
gian kéo dài không ăn uống được...

+ Da, niêm mạc:
- Da, niêm mạc tím (khi hemoglobin khử > 5g/100ml) gặp ở các bệnh nhân có


bệnh tim bẩm sinh có tím, hoặc các bệnh tim bẩm sinh có luồng thơng trái-phải
hoặc thơng động-tĩnh mạch đã đảo shunt. Tím cũng thường gặp ở các bệnh nhân
suy tim phải nặng. Thường thấy tím ở đầu chi, môi, mũi, dái tai...

- Da, niêm mạc xanh, nhợt nhạt: ở các bệnh nhân thiếu máu gây suy tim, thiếu
máu trong viêm màng trong tim nhiễm khuẩn hoặc ở các bệnh nhân thấp tim thể
nặng, thấp tim tiến triển...

- Phù: phù mềm, ấn lõm. Phù thường xuất hiện ở đầu chi dưới, sau đó phù tồn
thân, tràn dịch đa màng (màng bụng, màng phổi, màng tim...). Thường phù là do
suy tim phải. Khi suy tim phải, máu ứ lại ở hệ thống tĩnh mạch làm tăng áp lực và
tăng tính thấm mao mạch, ứ Na+ do tăng aldosterol (gây giữ nước và tăng thể tích
nên gây phù). Phù đồng đều 2 bên chi, kèm theo bệnh nhân có khó thở.


Có trường hợp hiếm gặp là phù cứng (phù niêm) do bệnh lý suy tuyến giáp. Khi
đó bệnh nhân béo, mặt trịn, da khơ và nhợt nhạt như sáp, tóc khơ, rụng tóc, chậm
chạp, sợ lạnh, nhịp tim chậm.

- Da, niêm mạc vàng: có thể gặp ở người bị nhồi máu phổi (hậu quả của viêm tắc
tĩnh mạch, nằm lâu, sau mổ vùng tiểu khung, gẫy xương đùi hay các bệnh nhân
suy tim phải lâu ngày).
- U vàng - mảng cholesterol do ứ đọng cholesterol ở mí mắt, cơ tam đầu cánh tay,
gân Achille. Thường gặp trong bệnh tăng cholesterol máu.

+ Ngón tay, ngón chân: ngón tay ngón chân dùi trống, móng tay khum như mặt
kính đồng hồ gặp ở các bệnh nhân có viêm màng trong tim nhiễm khuẩn, bệnh tim
bẩm sinh có tím. Đơi khi có chín mé ở ngón tay, ngón chân trong bệnh viêm màng
trong tim nhiễm khuẩn.


1.2. Khám đầu, cổ:
- Mắt: mắt hơi lồi và xung huyết ở kết mạc (mắt cá chày) hay gặp ở bệnh nhân
bệnh tim-phổi mãn tính. Rối loạn thị lực hay gặp ở bệnh nhân tăng huyết áp hay
tắc động mạch trung tâm võng mạc. Soi đáy mắt đánh giá các giai đoạn của tăng
huyết áp (theo Keith- Wegener):

. Giai đoạn 1: động mạch võng mạc co nhỏ.


. Giai đoạn 2: động mạch bắt chéo qua tĩnh mạch võng mạc, đè bẹp tĩnh mạch,
động mạch nhỏ và cứng (dấu hiệu Salus- Gunn).
. Giai đoạn 3: có thêm chảy máu võng mạc mới hoặc cũ + dấu hiệu Salus- Gunn

. Giai đoạn 4: có dấu hiệu giai đoạn 3 và thêm phù gai thị.
- Tĩnh mạch cảnh nổi và đập là triệu chứng của suy tim phải. Bệnh nhân nằm ngửa
thân tạo góc 300 với mặt giường thì bình thường tĩnh mạch cổ khơng nổi hoặc chỉ
nổi nhẹ khoảng 3-4 cm trên bờ hõm ức (lúc này áp lực tĩnh mạch cảnh khoảng 89cm H2O). Khi suy tim phải, tĩnh mạch cổ nổi to, thậm chí khi bệnh nhân ngồi
tĩnh mạch cổ vẫn nổi. Khi có hở van 3 lá nhiều thì có thể thấy tĩnh mạch cổ đập
vào thời kỳ tâm thu.

Nghiệm pháp phản hồi gan-tĩnh mạch cổ: đặt bàn tay của thầy thuốc lên vùng hạ
sườn phải (chỗ có gan to) ấn nhẹ xuống trong khi bệnh nhân hít thở bình thường.
Bình thường, tĩnh mạch cổ có thể nổi lên một chút rồi trở lại như cũ, nhưng khi có
suy tim phải thì ta thấy tĩnh mạch cổ nổi to lên trong cả thời gian ta ép tay vào hạ
sườn phải. Nếu ở người gan to có suy tim mà phản hồi gan tĩnh mạch cổ âm tính
thì khả năng bệnh nhân đã có xơ gan tim.
Ở bệnh nhân tràn dịch màng ngồi tim có ép tim hoặc viêm màng ngồi tim co
thắt, khi hít vào tĩnh mạch cảnh lại nổi to hơn (bình thường xẹp xuống). Lý do là



vì khi thở vào máu dồn về tĩnh mạch chủ nhiều hơn nhưng không đưa nhanh về
tim phải do tim không giãn được nên làm tĩnh mạch cảnh nổi to lên.
Cần chú ý phân biệt với tĩnh mạch cổ nổi ở người già mà khơng có suy tim phải.
Để phân biệt, ta lấy một ngón tay đè lên tĩnh mạch cảnh: nếu tĩnh mạch cổ nổi ở
người khơng có ứ trệ tuần hoàn sẽ thấy tĩnh mạch nổi to hơn ở phía trên ngón tay
(về phía đầu), cịn nếu có ứ trệ tuần hồn do suy tim phải thì tĩnh mạch nổi rõ hơn
ở phía dưới ngón tay (về phía tim).

- Động mạnh cảnh đập mạnh ở thời kỳ tâm thu, chìm nhanh vào thời kỳ tâm
trương làm cảm giác đầu bệnh nhân gật gù (dấu hiệu Musset) gặp ở bệnh nhân hở
van động mạch chủ nặng. Sờ có thể thấy động mạch xơ cứng hoặc đập yếu hơn
khi vữa xơ hoặc tắc động mạch.
Có thể sờ thấy quai động mạch chủ đập mạnh ở hố trên ức khi quai động mạch chủ
vồng cao và xơ vữa hoặc ở bệnh nhân hẹp eo động mạch chủ.
- Khám tuyến giáp: tuyến giáp to lan toả, thể nhân hoặc thể hỗn hợp, có tiếng thổi
tâm thu hoặc thổi liên tục tại tuyến ở người bị cường giáp. Đó là nguyên nhân gây
nhịp tim nhanh và suy tim tăng cung lượng.

1.3. Khám lồng ngực:


- Nghe phổi có rên nổ, rên ẩm là biểu hiện của suy tim trái. Khi rên ẩm dâng lên
nhanh như thuỷ triều lên là một biểu hiện của phù phổi cấp. Nghe phổi có rên phế
quản ở cơn hen tim.

Tràn dịch màng phổi là triệu chứng thường gặp ở bệnh nhân suy tim nặng.
- Tĩnh mạch bàng hệ vùng cổ-ngực và phù áo khốc, có khi tĩnh mạch chủ trên bị
chèn ép trong hội chứng trung thất trước.

1.4. Khám bụng:

Gan to, phản hồi gan-tĩnh mạch cổ nổi dương tính gặp ở bệnh suy tim phải, suy
tim toàn bộ, tràn dịch màng ngoài tim, viêm màng ngoài tim co thắt. Khi gan to,
tĩnh mạch cổ nổi mà phản hồi gan tĩnh mạch cổ (-) thì thường đã có xơ gan-tim.

Gan to và đập theo nhịp tim gặp ở bệnh nhân hở van 3 lá nặng.
- Cổ trướng tự do có thể gặp ở bệnh nhân suy tim phải, suy tim toàn bộ, viêm
màng ngoài tim co thắt, tràn dịch màng ngồi tim nhiều.
- Lách to có thể gặp ở bệnh nhân viêm nội tâm mạc nhiễm khuẩn hoặc người có xơ
gan-tim nặng.

- Khi khám bụng có thể phát hiện các khối phình giãn động mạch chủ bụng, có thể
có tiếng thổi tâm thu dọc động mạch. Khi có bóc tách động mạch chủ bụng thì
bệnh nhân thường kèm theo đau bụng nhiều.


- Có thể thấy thận to (thận đa nang, thận ứ nước, nang thận...), có thể thấy tiếng
thổi tâm thu ở vùng động mạch thận (do hẹp động mạch thận) ở các bệnh nhân bị
tăng huyết áp, vữa xơ động mạch.

2. Khám tim.
Bao gồm các thao tác: nhìn, sờ, gõ, nghe.

2.1. Nhìn:
- Mỏm tim: nhìn có thể thấy vị trí của mỏm tim. Bình thường mỏm tim đập ở liên
sườn 5 trên đường giữa xương đòn trái. Khi thất trái to thì mỏm tim đập xuống
liên sườn 6 hoặc 7, có thể chếch ra đường nách trước, khi bệnh nhân béo, thành
ngực dày có thể khơng nhìn thấy mỏm tim đập trên thành ngực.

- Đánh giá hình dáng của lồng ngực. Người bệnh có bệnh tim từ nhỏ (trước khi cốt
hố các sụn sườn) thì lồng ngực có thể dơ ra phía trước, biến dạng. Người bị gù

vẹo, biến dạng lồng ngực và cột sống hay bị rối loạn thông khí thể hạn chế và là
nguyên nhân dẫn đến tăng áp lực động mạch phổi gây bệnh tim-phổi mãn tính.

2.2. Sờ:
Thường sờ ở tư thế bệnh nhân nằm với một góc 300 so với mặt phẳng ngang, hơi
nghiêng sang trái.


- Sờ để phát hiện vị trí của mỏm tim và diện đập của mỏm tim. Vị trí đập của mỏm
tim như đã tả ở phần nhìn. Diện đập của mỏm tim thường rộng khoảng 1-2cm2,
khi thất trái giãn thì diện đập của mỏm tim to hơn và xuống thấp, chếch sang trái.
Khi tim tăng động (cường giao cảm, Basedow) hoặc hở van động mạch chủ thì
biên độ đập của mỏm tim tăng lên. Khó sờ mỏm tim khi bệnh nhân béo, ngực dày,
khí phế thũng, tràn dịch màng ngồi tim hoặc tim đập quá yếu. Ở bệnh nhân hở
van động mạch chủ nặng thấy thất trái đập mạnh vào lòng bàn tay gọi là “đập dội
dạng vòm của Bard”.

Khi có phình thất trái sẽ sờ thấy tim đập dội vào lòng bàn tay khi sờ vùng liên
sườn 3-4 trái. Khi cơ thất trái đã giãn, xuất hiện tiếng ngựa phi thì có thể sờ thấy
tim đập ở thời kỳ tiền tâm thu hoặc đầu tâm trương.
- Sờ thấy tim đập mạnh ở vùng mũi ức: ở bệnh nhân có thất phải to (dấu hiệu
Hargez dương tính).
- Có thể sờ thấy rung miêu trên thành ngực do dịng máu xốy mạnh khi qua các
van tim, lỗ thông bất thường trong tim hoặc mạch máu.

Rung miêu tâm thu: sờ thấy ở mỏm tim khi hở van 2 lá, ở liên sườn 2 cạnh ức phải
khi hẹp lỗ van động mạch chủ, ở liên sườn 3-4 cạnh ức trái khi thông liên thất, ở
liên sườn 2 cạnh ức trái khi hẹp lỗ van động mạnh phổi.
Rung miêu tâm trương: sờ thấy ở mỏm tim khi hẹp lỗ van 2 lá.



Rung miêu liên tục, mạnh lên ở thì tâm thu: sờ thấy ở dưới xương đòn trái và liên
sườn cạnh ức trái khi còn ống động mạch (tồn tại ống Botal).

2.3. Gõ:
Gõ tìm diện đục tuyệt đối và tương đối của tim để xác định vị trí và kích thước của
tim. Ngày nay, với sự phổ cập của X quang, siêu âm tim, điện tim thì gõ tim ít
được sử dụng như trước đây.
Thứ tự gõ tìm diện đục của tim: gõ từ khoảng liên sườn 2 phải xuống để xác định
bờ trên gan. Gõ từ đường nách trước vào phía xương ức trên các khoang gian sườn
để xác định bờ phải và bờ trái của tim. Bình thường, diện đục của tim ở bên phải
cách bờ sườn ức 1 - 1,5cm, bờ trái của tim không vượt quá đường qua giữa xương
ức trái. Ở bên trái, có một vùng đục ít (ở phía ngồi vùng đục nhiều hơn) do có
một phần nhu mơ phổi len vào giữa tim và thành ngực, gọi là diện đục tương đối
của tim. Vùng đục nhiều hơn ở phía trong (là vùng tim áp trực tiếp lên thành ngực)
là diện đục tuyệt đối của tim.

Diện đục của tim to lên ở các bệnh lý gây tim to như: bệnh van tim, bệnh cơ tim,
tràn dịch màng ngoài tim...

2.4. Nghe:


Là thao tác quan trọng, cung cấp nhiều thông tin cho người thầy thuốc. Trước đây,
người thầy thuốc nghe trực tiếp trên ngực bệnh nhân. Ngày nay, ống nghe là dụng
cụ được dùng phổ biến trong thực hành lâm sàng.

2.4.1. Các vùng nghe tim:
Trên thành ngực, có những vùng nghe được sóng âm mạnh nhất từ các van tim
tương ứng (tuy nhiên, đó khơng phải là vị trí đối chiếu lên thành ngực của các van

tim).

Ở người bình thường, vùng van 2 lá là mỏm tim (ở liên sườn 5 đường giữa đòn
trái), vùng van 3 lá ở chỗ sụn sườn 6, sát bờ trái xương ức; vùng van động mạch
phổi ở liên sườn 2, cạnh bờ trái xương ức; vùng van động mạch chủ ở liên sườn 2
cạnh bờ phải xương ức. Ở liên sườn 3 cạnh ức trái thường nghe được tiếng thổi
tâm trương của hở van động mạch chủ.

2.4.2. Thứ tự nghe tim:
Nghe ở van 2 lá rồi đến ở van 3 lá, van động mạch phổi và cuối cùng là van động
mạch chủ. Trong khi nghe tim thì phải kết hợp bắt mạch để xác định thời kỳ tâm
thu (lúc mạch nẩy) và thời kỳ tâm trương (lúc mạch chìm). Tại mỗi ổ nghe tim,
phải chú ý phân tích các tiếng T1, T2 về cường độ, âm độ, hiện tượng tách đôi,
thay đổi theo hô hấp.

2.4.3. Phân tích các tiếng tim:


Thường khi nghe tim ta phải chú ý các tiếng tim theo một trình tự sau:

- Nhịp tim: có đều khơng? Nếu khơng đều thì do ngoại tâm thu hay loạn nhịp hoàn
toàn, blốc nhĩ-thất cấp 2, cấp 3. Người trẻ tuổi, nhịp tim khơng đều có thể do ảnh
hưởng của hô hấp.
- Tần số tim là bao nhiêu chu kỳ/phút, có bao nhiêu ngoại tâm thu/phút.

- Các tiếng tim: thường nghe được tiếng T1 và T2. Đơi khi có tiếng T3 và T4.
. Tiếng T1 có âm độ trầm, tạo thành bởi 4 thành phần: cơ tim co và căng ra lúc đầu
tâm thu; đóng van 2 lá; đóng van 3 lá và do dịng máu được bóp lên động mạch
chủ tăng gia tốc khi di chuyển. Tiếng T1 nghe rõ nhất ở van 2 lá và 3 lá. Tiếng T1
tách đôi khi van 2 lá và 3 lá đóng khơng đồng thời (vượt q 0,03sec).


. Tiếng T2 có âm độ cao hơn, tạo nên bởi sự đóng van động mạch chủ và van động
mạch phổi. Nghe rõ nhất ở ổ van động mạch chủ và van động mạch phổi. Bình
thường, động mạch phổi thường đóng sau động mạch chủ 0,02 - 0,03 sec. Khi hít
vào sâu, máu từ tĩnh mạch về tim phải nhiều hơn nên thời kỳ tâm thu thất phải kéo
dài hơn tạo ra tiếng T2 tách đơi.

. Tiếng T3 có âm độ trầm, ở thời kỳ tâm trương đầy máu nhanh, máu từ nhĩ xuống
thất làm thất giãn nhanh và mạnh, chạm vào thành ngực gây tiếng T3. Tiếng T3
sinh lý gặp ở người trẻ tuổi khoẻ mạnh, mất đi khi đứng do giảm lượng máu về
tim, trong khi đó T3 bệnh lý (tức ngựa phi đầu tâm trương) không mất đi.


. Tiếng T4: còn gọi là tiếng tâm nhĩ. Khi nhĩ thu máu dồn mạnh xuống thất làm
thất giãn ra, đập lên thành ngực. Tiếng T4 ít gặp ở lâm sàng.
- Khi nghe được các tiếng bệnh lý cần phân tích các đặc điểm sau:

. Vị trí nghe được của tiếng tim bệnh lý.
. Hướng lan: tiếng cọ màng ngoài tim khu trú ít lan cịn các tiếng thổi thường lan
theo hướng đi của dịng máu xốy tạo ra nó.
. Tiếng bệnh lý thuộc thời kỳ nào của chu chuyển tim: tâm thu, tâm trương hay
liên tục, rõ nhất ở thời điểm nào?

. Cường độ: Freeman và Levine (1933) chia tiếng thổi ra 6 mức độ:
Độ 1: tiếng thổi nhỏ, phải chú ý nghe mới phát hiện được.

Độ 2: nghe ngay được tiếng thổi nhưng cường độ nhẹ.
Độ 3: nghe mạnh, rõ nhưng sờ chưa có rung miu.

Độ 4: tiếng thổi mạnh, sờ có rung miu.

Độ 5: tiếng thổi rất mạnh, sờ có rung miu nhưng khi nghiêng loa ống nghe vẫn còn
nghe được tiếng thổi.


Độ 6: tiếng thổi rất mạnh, sờ có rung miu và khi đặt loa ống nghe cách lồng ngực
khoảng 1-2 mm vẫn còn nghe được tiếng thổi.
. Âm độ: cao hay thấp. Tần số càng cao, âm độ càng cao.

. Âm sắc: thô ráp hay êm dịu. Khi tần số tiếng thổi khơng đều thì nghe thơ ráp.
2.4.4. Khi nghe tim có thể làm các nghiệm pháp sau:

- Thay đổi tư thế người bệnh:
. Cho bệnh nhân nằm nghiêng trái để nghe rõ tạp âm ở mỏm tim do tổn thương
van 2 lá như rù tâm trương, thổi tâm thu.

. Ngồi dậy cúi người ra trước, thở ra rồi nín thở để nghe rõ tiếng thổi tâm trương ở
hở van động mạch chủ.

. Đứng dậy để làm giảm lượng máu về tim sẽ làm mất tiếng T3 sinh lý.
. Giơ cao chân 450 so với mặt giường để làm tăng lượng máu về tim phải sẽ làm
rõ các tiếng thổi có nguồn gốc ở tim phải.
- Thay đổi theo hơ hấp:

. Hít sâu sẽ làm tăng áp lực âm tính ở lồng ngực và máu về thất phải nhiều hơn dẫn
đến kéo dài thời gian tâm thu thất phải gây tiếng T2 tách đơi. Khi thở ra hoặc hít


sâu nín thở (nghiệm pháp Valsalva) làm tăng áp lực trong lồng ngực sẽ không thấy
tiếng T2 tách đôi nữa.
. Hít sâu làm tăng lượng máu về tim phải nên các tiếng thổi ở tim phải (hở van 3

lá, hở van động mạch chủ...) sẽ to lên. Dấu hiệu Rivero-Carvalho (+) là khi hít sâu
tiếng thổi tâm thu do van 3 lá sẽ to lên.

- Gắng sức: nếu khơng có chống chỉ định thì gắng sức sẽ làm tăng huyết áp và
tăng cung lượng tim trái nên các tiếng thổi có nguồn gốc từ tim trái sẽ tăng lên về
cường độ và âm độ (hở van 2 lá, hở van động mạch chủ, hẹp động mạch chủ... ).
Ngoại tâm thu cơ năng thường mất hoặc giảm đi sau gắng sức.
- Dùng thuốc: dùng thuốc làm co mạch (như: phenylephrin, methoxamin) hoặc
thuốc làm giãn mạch như nitrit amyl.
Đối với các tiếng thổi trào ngược (thổi tâm trương ở hở van động mạch chủ; thổi
tâm thu ở hở van 2 lá), thuốc co mạch làm tiếng thổi mạnh lên, thuốc giãn mạch
làm tiếng thổi yếu đi. Trong khi đó, các tiếng thổi tống máu (thổi tâm thu do hẹp
lỗ van động mạch chủ) sẽ mạnh lên khi dùng thuốc giãn mạch và nhỏ đi khi dùng
thuốc co mạch.



×