Tải bản đầy đủ (.pdf) (16 trang)

Giáo trình phân tích hệ thống môi trường nông nghiệp phần 6 pptx

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (485.68 KB, 16 trang )


69

b) ðất là một vật thể sống
ðất không phải chỉ ñơn giản có vai trò vật lí (làm giá ñỡ, giữ nước và chất dinh
dưỡng), mà ñất còn là một vật thể sống, ở ñó có hằng hà sa số các vi sinh vật ñất. Hoạt ñộng
của các vi sinh vật này quyết ñịnh ñộ phì nhiêu và “sức khoẻ” của ñất. Là một vật thể sống
nên ñất rất cần ñược nuôi dưỡng, chăm sóc. Những ñiều kiện sau ñây bảo ñảm cho ñất sống:
(1) cung cấp thường xuyên chất hữu cơ cho ñất, (2) phủ ñất thường xuyên ñể chống xói
mòn, (3) khử hay giảm thiểu tối ña các yếu tố gây hại trong ñất (hoá chất NN).
c) Tái chu chuyển
Trong rừng tự nhiên có một vòng chu chuyển dinh dưỡng dựa vào ñất. Mọi cái bắt ñầu
từ ñất và cuối cùng lại trở về với ñất. Do vòng chu chuyển này mà mọi cái ñều có vị trí trong
tự nhiên, mọi cái ñều cần cho nhau và hỗ trợ lẫn nhau. Vòng chu chuyển này là vấn ñề mấu
chốt trong sử dụng hợp lí tài nguyên. Còn trong NN, vòng chu chuyển này luôn bị rối loạn và
từ ñó làm nảy sinh nhiều vấn ñề.
Trong ñất NN, hầu như mọi sản phẩm của cây trồng ñều bị lấy ñi khỏi ñất khi thu
hoạch. Chỉ có một số ít chất khoáng ñược bổ sung dưới dạng bón phân hoá học; do ñó ñộ phì
của ñất dễ bị cạn kiệt.
Trong trường hợp chăn nuôi “thương mại”, người ta cố càng nhốt nhiều vật nuôi trong
một diện tích giới hạn càng tốt; con giống, thức ăn, các loại hoá chất kích thích và tăng trọng
cũng như các vật tư cần thiết cho dịch vụ thú y ñều từ bên ngoài. Thu nhập có thể tăng, nhưng
tạo ra hiện tượng quá thừa chất hữu cơ cục bộ do các loại chất thải, và ñiều ñó là nguyên nhân
gây ô nhiễm môi trường. Và như vậy là xét trong toàn cục thì ñó là lối sản xuất không bền
vững.
Xu hướng chuyên môn hoá trong sản xuất cũng làm người ta thiếu tỉnh táo khi xem xét
mối quan hệ giữa ngành chuyên môn hoá ấy với các thứ khác, với ñiều kiện môi trường và tài
nguyên xung quanh. Vấn ñề quan trọng là phải tìm cách tái lập ñược vòng chu chuyển: tạo ra
mối quan hệ ñúng ñắn giữa các thành phần của hệ (cây trồng, vật nuôi, thuỷ sản, cây rừng )
ñể có lợi cho từng thành phần nhưng ñồng thời có lợi cho toàn bộ. Tái chu chuyển là ñiểm
mấu chốt trong việc sử dụng tài nguyên ngoài ñồng, trong vườn, và giảm bớt sự lệ thuộc vào


nguồn lực bên ngoài.
d) Cấu trúc nhiều tầng
Nguồn lực thực sự tạo ra sinh khối là năng lượng ánh sáng mặt trời, nước mưa và khí
CO
2
. Sản lượng sinh khối trong rừng tự nhiên luôn luôn cao hơn sản lượng trên ñất NN.
Nguyên nhân là thảm thực vật nhiều tầng ở rừng có thể sử dụng tối ña các nguồn lợi; còn cấu
trúc của hệ canh tác thường là nằm ngang nên không thể sử dụng với hiệu suất cao các tài
nguyên này.
Nếu ánh sáng mặt trời và nước mưa ñược ñất NN sử dụng thích ñáng thì chúng có thể
mang lại nhiều lợi ích cho ñất. Nếu không, chính chúng lại là nguyên nhân gây hạn hán, lụt
lội, xói mòn ñất. Khí hậu nhiệt ñới nắng lắm mưa nhiều càng cần xây dựng ở ñây nền NN có
cấu trúc nhiều tầng.
2.7 Phương pháp duy trì bền vững ñối với ñất
ðất là tài nguyên gắn bó mật thiết với sinh vật và có quan hệ hữu cơ với NN và lâm
nghiệp. Trước khi sự sống xuất hiện thì không có ñất mặt mà nó chỉ ñược hình thành sau khi
có sinh vật, khoảng một ngàn triệu năm trước ñây.
M
ột trong những mục tiêu của NNBV là cải tạo ñể phục hồi những loại ñất ñã bị tác
ñộng phiến diện của con người làm cho thoái hoá, duy trì và nâng cao tiềm năng sinh học của

70

các loại ñất còn chưa bị suy thoái; và ñể cho các HST ñặc biệt như ñầm lầy, sa mạc, ñất cát
ven biển, ñất ñồi núi diễn biến theo xu hướng tự nhiên có sự quản lí và ñịnh hướng của con
người.
Trong vườn và trang trại, NNBV chủ trương sử dụng cho hết chất dinh dưỡng nhân tạo
ñể chúng không trở thành nguyên nhân gây ô nhiễm, bằng cách trồng nhiều loại cây, mỗi loại
sử dụng những loại chất dinh dưỡng khác nhau, bón phân vào những lúc cây có thể sử dụng
ñược tối ña

a) Bón phân và giữ gìn ñất
Có thể tìm thấy mô hình lí tưởng ñể bón phân và giữ gìn ñất qua rừng tự nhiên, ở ñó quá
trình thêm và trả lại chất hữu cơ cho ñất là chính. Lượng mùn trong ñất bị giảm ñi vì quá trình
khoáng hoá, nên việc cung cấp lại lượng mùn bị mất ñi hàng năm là hết sức cần thiết ñể giữ
ñộ phì và phẩm chất của ñất. Có thể bón thêm chất hữu cơ bằng nhiều cách: lớp phủ, phân
xanh, phân chuồng, phân trộn Lúc nào cũng cần phủ mặt ñất bằng một thảm thực vật hay
chất hữu cơ. ðất ñể trống dễ bị mưa gió và nhiệt ñộ cao tác ñộng, dễ làm ñất bị xói mòn.
Cần tránh trộn các chất hữu cơ thô (chưa phân huỷ hoàn toàn) vào ñất vì những giai
ñoạn ñầu của quá trình phân huỷ cần nhiều ôxy dễ làm cho rễ cây bị thiếu ôxy, sinh ra khí
metan có hại cho rễ (cây ăn lá và ăn quả rất mẫn cảm với các khí ñộc này), ñộ chua hữu cơ
của ñất tăng làm rối loạn sự cân bằng vi sinh vật (nấm có hại tăng lên). Chỉ nên ñể chất hữu
cơ thô lên mặt ñất làm lớp phủ. Trong những trường hợp phải trộn chất hữu cơ thô (phân
xanh) với ñất, cần có thời gian ñể phân xanh phân huỷ hoàn toàn trước khi trồng cây trồng
chính.
Trồng cây và cỏ dọc ñường ranh giới khu ñất nhằm bảo vệ ñất khỏi bị mưa làm sụt lở và
kiểm tra sự rửa trôi ở lớp ñất mặt. Về sau, khu ñất ven ranh giới này sẽ trở thành một nguồn
phân hữu cơ, cỏ khô, củi ñun, thực phẩm hay gỗ xây dựng, ñồng thời có tác dụng chắn gió.
Hạn chế dùng hoá chất trong NN. Các hoá chất này có thể cung cấp nhanh các chất dinh
dưỡng như N.P.K hay diệt sâu bệnh, nhưng chính chúng làm mất cân bằng sinh thái ñất. Tính
axit của phân hoá học làm mất hoạt tính của vi sinh vật, và chúng còn bị chết vì ñộc tính của
nông dược hoá học. Mặt khác, cân bằng dinh dưỡng của cây còn bị rối loạn vì cây chỉ ñược
cung cấp một số chất dinh dưỡng nhất ñịnh, do ñó dễ bị sâu bệnh hại tấn công.
b) Che phủ mặt ñất và ít cày xới
Phủ lên bề mặt ñất một lớp phủ gồm các loại chất hữu cơ khác nhau như cỏ, lá rụng,
rơm rạ vừa có vai trò bảo vệ ñất vừa có khả năng nâng cao ñộ phì thực tế của ñất. Việc cày
xới có thể giảm nếu có ñủ lớp phủ.
Ưu ñiểm của lớp phủ là bảo vệ ñất khỏi tác ñộng của hạt mưa và nhiệt ñộ cao. Làm ñất
kĩ ñôi khi lại là nguyên nhân của xói mòn ñất do phá vỡ liên kết trong các hạt keo ñất. Lớp
phủ còn cải tiến kết cấu vật lí của lớp ñất mặt, làm tăng ñộ kết cấu, tăng khả năng giữ ẩm. Về
mùa khô, lớp phủ ngăn ngừa quá trình bốc hơi và giữ ẩm. Nó còn làm tăng ñộ phì nhờ quá

trình phân huỷ và tiêu biến tự nhiên. Trong khi phân huỷ, nó làm giầu và cân ñối các nguyên
tố vi lượng. Các chất dinh dưỡng ít bị hao phí vì quá trình phân huỷ diễn ra trên mặt ñất, nơi
cần sử dụng nhiều nhất các chất dinh dưỡng. Lớp phủ làm giảm cỏ dại. ðây là công việc ñơn
giản và giảm công lao ñộng làm ñất.
Tuy vậy, lớp phủ cũng có nhược ñiểm như gây nấm mốc vào mùa mưa. Nên bắt ñầu
phủ ñất vào mùa khô, phơi khô vật liệu phủ trước khi dùng. Lớp phủ ñôi khi là trở ngại cho
việc gieo hạt giống. Nên phủ lớp mỏng trước khi gieo hạt.

71

Nguyên liệu làm lớp phủ là bất cứ loại chất hữu cơ nào: lá cây, cỏ, mùn cưa Nếu có
nhu cầu bảo vệ ñất và tránh nấm mốc gây bệnh vào mùa mưa, thì nên dùng nguyên liệu có tỉ
lệ C/N cao, tức là có hàm lượng C cao (rơm rạ ); nếu muốn làm ñất màu mỡ thì dùng nguyên
liệu có tỉ lệ C/N thấp (cây họ ñậu, phân trộn ).
Lớp phủ “sống” là trồng một loại cây họ ðậu thấp, có khả năng bò lan nhanh. Ưu ñiểm
là không cần phải thu gom nguyên liệu, bảo vệ ñất lâu dài, cung cấp thêm N cho ñất. Ở Việt
Nam có thể dùng ñậu ván, ñậu triều, cỏ ba lá
c) Tăng cường sử dụng phân xanh
Trồng cây phân xanh (cây họ ðậu) một thời gian và trả lại toàn bộ sinh khối cho ñất.
Cây phân xanh có ưu ñiểm là mọc nhanh, thu ñược sinh khối lớn sau một thời gian ngắn, có
thể cố ñịnh ñược N khí quyển nhờ cộng sinh với vi khuẩn có khả năng cố ñịnh N ở hệ rễ. Có
thể cắt cây phân xanh làm lớp phủ trên mặt ñất ñể rút ngắn thời gian phân huỷ, giảm công làm
ñất.
Phân xanh cải thiện ñộ phì nhiêu của ñất: ñất trở nên tơi xốp hơn, tăng khả năng giữ
nước và dẫn nước, tăng dinh dưỡng cho ñất, tăng số lượng và hoạt tính của các vi sinh vật.
Nhược ñiểm là cần nhiều thời gian: chờ cây mọc 1,5-2 tháng và phân huỷ trong 2-3 tuần (phụ
thuộc vào nhiệt ñộ, loại cây phân xanh ). Thường người ta chỉ gieo phân xanh vào thời gian
không thể trồng cây kinh tế.
d) Tích cực sử dụng phân trộn (phân rác)
Trộn phân (compốt) là cách làm phổ biến nhất ñể cải thiện ñộ phì của ñất. Trộn các

nguyên liệu hữu cơ khác nhau (tỉ lệ C/N khác nhau, tươi và khô, cỏ, ñất ) giúp cho sự phân
huỷ và sau khi phân huỷ hoàn toàn thì sử dụng làm phân bón. Mục ñích chính là biến ñổi chất
hữu cơ thô thành mùn.
So với phân xanh và lớp phủ, phân trộn ñược sử dụng nhanh hơn. Nguyên liệu hữu cơ
ñã ñược phân huỷ trước và ở dạng mùn hợp với cây. Ưu ñiểm nữa là dùng nguyên liệu sẵn có
ngay tại chỗ và dùng cả rác thải. Nhược ñiểm là cần nhiều chất hữu cơ trong khi không phải ở
vùng nông thôn nào cũng sẵn rác thải là chất hữu cơ. Trong quá trình trộn phân, một số chất
dinh dưỡng bị mất do nắng nóng, mưa và gió. Người ta thường ñặt hố trộn dưới tán cây hay
có mái che và trộn ñảo sao cho phân có thể dùng sau 3 tháng xử lý. Quá trình xử lí phân trộn
khá vất vả: thu nhặt, trộn, ñảo
e) Trồng cây và cỏ dọc ñường ranh giới
ðường ranh giới giữa các ñơn vị sản xuất NN là nguồn tài nguyên có thể sinh lợi. Ưu
ñiểm của biện pháp này là kiểm tra ñược sự xói mòn của ñất. Mưa to không những làm cuốn
trôi chỗ ñất mặt mà còn làm sụt lở vùng ranh giới. Rễ cây và rễ cỏ giữ chặt ñất làm cho vùng
ranh giới không bị rửa trôi, sụt lở. Cây to còn ngăn gió, bảo vệ cây trồng phía trong. Vùng
ranh giới cũng là nơi sản xuất chất hữu cơ ñể bồi dưỡng ñất. Cây lâu năm sử dụng ánh sáng
mặt trời quanh năm, và có khả năng huy ñộng dinh dưỡng từ các tầng ñất sâu, ñồng thời sản
xuất sinh khối lớn hơn cây hàng năm. Cỏ ven ñường dùng cho gia súc, cây làm củi ñun
Cây, cỏ ở ñây còn có ý nghĩa quan trọng trong cân bằng sinh thái, tăng tính ña dạng của
thực vật, tạo nơi sống cho ñộng vật có ích (chim, nhện, ếch nhái ). Người ta ít trồng cây to
trong vườn vì tốn diện tích, che ánh sáng cây hàng năm; vì thế ở những khu ranh giới có thể
trồng cây to ña mục ñích: tạo bóng mát, lấy gỗ, lấy thực phẩm, lấy phân xanh, lấy củi
ðứng trên quan ñiểm NNBV, có thể thấy có mấy hướng sử dụng với các loại “ñất có
vấn ñề” như sau:

72

 ðất dốc vùng ñồi núi: Tuỳ theo ñộ dốc, tầng dầy, mức ñộ lẫn ñá, ñộ phì và các chỉ tiêu
thổ nhưỡng nông hoá khác mà chọn các loại cây trồng cho phù hợp, chú ý ñến ý nghĩa
bảo vệ và cải tạo ñất (trồng rừng, trồng cây NN lâu năm như chè, cà phê, cao su, cây ăn

quả, cây dược liệu ). Áp dụng hệ thống các biện pháp kĩ thuật chống rửa trôi, xói mòn,
duy trì và nâng cao ñộ màu mỡ của ñất.
 ðất úng trũng: Nếu việc tiêu nước ở ñó quá tốn kém, cần chuyển hướng sản xuất phù
hợp với ñiều kiện ngập úng như trồng trọt kết hợp nuôi trồng thuỷ sản, mở mang nghề
phụ
 ðất mặn ven biển: Tận dụng tiềm năng nước lợ, nước mặn, phát triển nguồn lợi thuỷ
sản, trồng và bảo vệ rừng ngập mặn và ưu tiên các loại cây trồng chịu mặn (cói) và phát
triển nghề phụ.
 ðất phèn: Nâng cao tính ña dạng sinh học trong canh tác và sử dụng ñất: Nếu ñộ phèn
cao, trồng lúa sinh trưởng kém và năng suất thấp thì có thể trồng rừng (tràm, so ñũa,
bần ), nuôi cá, tôm và các nguồn lợi sinh học khác.

2.8 Xây dựng Nông nghiệp bền vững trên cơ sở Sinh thái học

Nông nghiệp bền vững vận dụng các mẫu hình trong thiên nhiên
ðể thực hành NNBV, chúng ta phải học từ thiên nhiên. Trong việc sản xuất sinh khối,
duy trì ñộ phì của ñất, bảo vệ ñất, phòng chống dịch hại, sử dụng năng lượng ñưa từ ngoài
vào thiên nhiên ñã chỉ cho ta những giải pháp hữu hiệu nhất cho cả hiện tại và tương lai. Mô
hình ấy là các cánh rừng tự nhiên. Rừng tự nhiên sản xuất ra một sinh khối khổng lồ hàng
năm mà không cần “ñầu vào” nhân tạo, và cung cấp thức ăn cho mọi loài ñộng vật sống trong
ñó, kể cả cho con người. Sản xuất NN sản xuất ra một sinh khối ít hơn, lại không thể thiếu các
ñầu vào nhân tạo, và luôn phải ñối mặt với nhiều vấn ñề môi trường.
Cơ chế sản xuất của NN và rừng tự nhiên là giống nhau. Chúng ñều sản xuất ra
hiñratcacbon (sinh khối) nhờ sử dụng các chất dinh dưỡng và nước từ ñất, CO
2
từ không khí,
thông qua năng lượng ánh sáng mặt trời ñể tiến hành quang hợp. ðiều khác nhau cơ bản là:
rừng là tự nhiên còn NN là nhân tạo. Tính nhân tạo này ñã tạo ra nhiều vấn ñề không có trong
tự nhiên: làm suy thoái ñất và tài nguyên sinh học, phát sinh nhiều loại dịch hại
NN là nhân tạo nhưng nó vẫn tồn tại trong thiên nhiên và chịu sự chi phối của tự nhiên.

ðiều rất quan trọng mà mọi người cần phải ý thức ñược là cần và phải tuân theo và thích ứng
ñược với những quy luật của tự nhiên. Phần lớn những vấn ñề mà nền NN hiện nay ñang phải
ñối mặt là do người ta ñã không hiểu, không tuân theo và ñôi khi làm ngược lại các quy luật
ñó.
Hệ sinh thái rừng tự nhiên
Hệ sinh thái rừng tự nhiên là một hệ hoàn chỉnh, trong ñó có một số lượng rất lớn các
loài ñộng, thực vật và vi sinh vật khác nhau, giữa vật sống (sinh vật) và vật không sống (phi
sinh vật) ñã tạo lập ñược mối quan hệ ở trạng thái cân bằng nào ñó. ðiều quan trọng là phải
hiểu ñược các mối quan hệ và tác ñộng qua lại ñó trong hệ sinh thái rừng tự nhiên.
Vòng chu chuyển dinh dưỡng
Về mặt sinh thái, mọi sinh vật trong tự nhiên ñều thuộc vào một trong ba loại: sinh vật
sản xuất, sinh vật tiêu thụ và sinh vật phân huỷ. Muốn hiểu HST, cần hiểu biết tác ñộng qua
l
ại giữa các nhóm sinh vật trên cũng như với các yếu tố phi sinh vật khác (mặt trời, không khí,
chất khoáng ).

73

Vai sản xuất thuộc về thực vật có diệp lục, có khả năng tạo ra cacbonhiñrat cho bản thân
chúng và cho các sinh vật khác nhờ khả năng ñặc biệt “ñóng hộp” ñược năng lượng ánh sáng
mặt trời vào trong cơ thể chúng.
Vai tiêu thụ là các loài ñộng vật dùng thực vật xanh làm thức ăn (trực tiếp hay gián
tiếp). Vai tiêu thụ lại ñược chia thành 4 lớp: Lớp I là các sinh vật ăn thực vật (như côn trùng
ăn lá); lớp II là các sinh vật ăn thịt bậc I (như nhện, ếch); lớp III là các sinh vật ăn thịt bậc II,
chủ yếu dùng sinh vật lớp II làm thức ăn (như rắn); lớp IV là ñộng vật ăn thịt (diều hâu, hổ),
bọn này dùng các ñộng vật lớp trước nó làm thức ăn.
Vai phân huỷ là các vi sinh vật (nấm, vi khuẩn ) sống bằng cách ăn các chất hữu cơ
như chất thải của vai sản xuất và vai tiêu thụ (lá rụng, xác súc vật). Số lượng của chúng trong
ñất và trong tự nhiên cực kì lớn. Chức năng quan trọng nhất của các vi sinh vật trong vai này
là biến ñổi chất hữu cơ thành mùn qua quá trình khoáng hoá. Mùn cần thiết ñể tạo ra ñất và

cải thiện ñộ phì ñất. Chất khoáng lại ñược các vai sản xuất hấp thụ. Ở một góc ñộ khác, vai
này có vai trò “dọn sạch” cho hành tinh chúng ta.
Như vậy, vai sản xuất càng sản xuất ñược nhiều cacbonhiñrat thì các vai tiêu thụ càng
sống tốt hơn. Các chất hữu cơ do vai sản xuất và vai tiêu thụ cung cấp cho ñất càng nhiều thì
các vai phân huỷ càng hoạt ñộng mạnh và càng tạo ra nhiều chất dinh dưỡng khoáng cho các
vai sản xuất. Các vai sản xuất tăng thêm và lượng ánh sáng mặt trời ñược cố ñịnh càng
nhiều Hệ thống này ñược gọi là vòng chu chuyển dinh dưỡng.
Qua vòng chu chuyển dinh dưỡng này, mọi sinh vật ñều tăng trưởng và ñất trở lên phì
nhiêu. Mọi sinh vật và phi sinh vật ñều tác ñộng qua lại lẫn nhau trong tự nhiên và không có
gì là vô dụng hay không cần thiết trong vòng quay không cùng ấy. Chúng liên kết với nhau
bằng các mối liên hệ nhu cầu và hỗ trợ lẫn nhau. Nếu một bộ phận nào ñó bị ảnh hưởng thì sẽ
ảnh hưởng ñến toàn bộ hệ thống.
Mối quan hệ nói trên giữa các vai gọi là dây chuyền thức ăn và mạng lưới thức ăn. Dây
chuyền này ñược cân bằng một cách mỏng manh, vì mọi mối quan hệ hữu cơ ñều là tạm thời
và có mâu thuẫn; bất kì một sự ñột biến của mắt xích nào cũng có thể làm cho cân bằng bị phá
vỡ. Ví dụ, nếu rắn hay mèo bị tiêu diệt nhiều thì chuột sẽ tăng mạnh; hay nếu ếch bị bắt nhiều
thì sâu hại sẽ tăng lên
Từ những hiện tượng về sinh thái như trên, có thể rút ra một số chỉ dẫn cho NNBV:
 Nguồn năng lượng chủ yếu ñể sản xuất carbonhidrat là mặt trời. Nâng cao hiệu suất sử
dụng năng lượng này cho quần thể thực vật là ñiều quan trọng nhất trong NN;
 Chỉ có cây xanh mới có khả năng quang hợp. Mức ñộ sử dụng năng lượng mặt trời phụ
thuộc vào số lượng và cấu trúc của quần thể thực vật;
 Nguồn ñộ phì (chất khoáng, mùn ) phụ thuộc vào lượng chất hữu cơ có chứa vi sinh
vật. Việc cung cấp chất hữu cơ là hết sức cần thiết ñể cải thiện ñất thông qua biện pháp
bón phân hữu cơ;
 Mọi sinh vật ñều có tác ñộng qua lại với nhau, và không có sinh vật nào là không cần
thiết hay có hại trong thiên nhiên.
Vòng chu chuyển nước và lượng mưa hữu hiệu:
Vòng chu chuyển nước trên hành tinh thông qua lực của năng lượng mặt trời. Nguồn
nước của nước trong ñất là mưa. Tuy nhiên chỉ có một phần nhỏ nước mưa là cây có thể sử

dụng, phần còn lại bị mất ñi bằng nhiều cách. Tổng lượng nước mưa rơi xuống gọi là lượng
m
ưa hiện tại. Lượng mưa hữu hiệu là tổng lượng nước mưa ñược dự trữ trong ñất, ñược sử

74

dụng bởi cây cỏ và cho các nhu cầu khác, loại trừ phần mất ñi do chảy trôi và bốc hơi. Lượng
mưa hữu hiệu là nguồn lực cho cây cỏ, ñộng vật và NN.
Lượng mưa hữu hiệu tăng lên hay không tuỳ thuộc vào lượng mưa, loại ñất, mật ñộ
thảm thực vật, ñịa hình Những cách làm tăng “lượng mưa hữu hiệu” trong NN là:
 Cung cấp chất hữu cơ cho ñất ñể tăng khả năng giữ nước của ñất;
 Luôn giữ lớp phủ thực vật và chất hữu cơ;
 Canh tác theo ñường ñồng mức và có những biện pháp kĩ thuật giữa nước trên ñất dốc.
Việc bảo vệ rừng và tăng vốn rừng là cách làm hữu hiệu nhất ñể làm tăng lượng nước
hữu hiệu của một khu vực. Rừng giữ ñược lượng nước mưa trong ñất rất lớn nhờ hệ rễ phát
triển, và sẽ cung cấp nước từ từ cho sông ngòi. ðồng thời, rừng còn làm tăng và duy trì lượng
mưa hiện tại nhờ việc hình thành mây từ sự bốc hơi cục bộ, nhất là ở những nơi nằm sâu trong
lục ñịa.
Sự khác biệt giữa hệ sinh thái nông nghiệp và rừng tự nhiên
a) Tính ña dạng
Khác biệt lớn nhất giữa hai hệ sinh thái này là số lượng loài. Rừng tự nhiên có sự ña
dạng rất cao về loài cây, người ta có thể tìm thấy hơn 100 loài trên diện tích 1/2 ha. Trên ñất
NN chỉ có ít loài hoặc ñôi khi chỉ có một loài ñộc nhất (ñộc canh) trên diện tích 1/2ha. ðộc
canh trong NN là một trong những nguyên nhân làm mất sự cân ñối trong HSTNN.
b) Dịch hại
Trong rừng tự nhiên hầu như không có vấn ñề dịch bệnh, và không có việc một loài sâu
hay bệnh nào ñó tàn phá hoàn toàn một khu rừng tự nhiên. Còn trong NN thì chuyện ñó xảy ra
không ñến nỗi hiếm. Nhiều người cho rằng nguyên nhân chủ yếu là do trong NN thiếu tính ña
dạng.
c) ðộ phì của ñất

ðộ phì của ñất rừng tăng dần và bền lâu, vì vòng chu chuyển dinh dưỡng không bị ñảo
lộn nhờ liên tục có thảm thực vật trên mặt ñất. Vòng chu chuyển dinh dưỡng làm tăng ñộ phì
của ñất còn thảm thực vật thì duy trì ñộ phì ñó.
Trong NN, phần lớn sinh khối bị lấy ñi khỏi hệ sinh thái qua mỗi vụ thu hoạch, rất ít
sinh khối thực vật ñược trả lại cho ñất, nên ñộ phì ñất bị suy giảm dần. ðất trống ñồi núi trọc
không hoặc ít ñược thực vật che phủ, rất dễ bị xói mòn làm giảm ñộ phì ñất.
d) Sản xuất sinh khối
Rừng tự nhiên có khả năng sản xuất ra một lượng sinh khối khổng lồ, chủ yếu là nhờ có
cấu trúc nhiều tầng và vòng chu chuyển dinh dưỡng không bị ñảo lộn.
Trên ñất NN, cấu trúc của cây cỏ là theo chiều ngang nên không thể sử dụng năng lượng
tự nhiên với hiệu suất cao. Vòng chu chuyển dinh dưỡng bị ñảo lộn do phần lớn sinh khối bị
lấy ra khỏi ñất. Do ñó sản lượng của ñất NN thấp hơn nhiều sản lượng của rừng tự nhiên mặc
dù có nhiều ñầu vào nhân tạo.
ðặc ñiểm của hệ sinh thái nhiệt ñới
Mỗi vùng trên trái ñất ñều có những ñặc ñiểm sinh thái riêng. ðáng tiếc là trong quá
trình phát triển, nhiều nước nhiệt ñới lại ñi áp dụng nguyên xi các tiến bộ kĩ thuật trong NN
của các nước ôn ñới, nơi có các ñiều kiện sinh thái hoàn toàn khác với nhiệt ñới. Các hệ NN
c
ổ truyền tại các nước nhiệt ñới vốn ñã duy trì ñược sự bền vững qua nhiều thế hệ ñã bị mất ñi
nhanh chóng, thay vào ñó là các kiểu sản xuất NN hiện ñại hay NN hoá học, thực chất là “NN

75

thương mại”. Năng suất cây trồng của nhiều nước nhiệt ñới thua kém các nước ôn ñới, trong
khi rừng mưa nhiệt ñới là nơi sinh lợi lớn nhất trong tự nhiên, ñứng về mặt sản xuất sinh khối.
Chúng ta hãy xem qua những ñặc ñiểm của khí hậu nhiệt ñới ẩm.
a) Khí hậu nhiệt ñới
Nhiệt ñộ cao, nắng gắt và thời gian có nắng kéo dài hơn nhiều so với vùng ôn ñới.
Lượng mưa rất lớn, lại mưa tập trung theo mùa; nhưng lượng mưa hữu hiệu bị giảm thấp, do
nước mưa không kịp thấm, tạo thành dòng chảy mạnh trên mặt ñất. Nhiệt ñộ và ñộ ẩm cao ở

ñây ñã tạo ra những ñiều kiện tối ưu cho sự phân huỷ diễn ra nhanh chóng, nên lượng hữu cơ
tồn tại trong ñất luôn có nguy cơ bị tiêu hao nhanh (không bền lâu).
b) Cấu trúc nhiều tầng của rừng tự nhiên
Khí hậu nhiệt ñới rất cực ñoan trong khi lượng chất hữu cơ trong ñất không mấy dồi
dào. ðể tồn tại và phát triển trong ñiều kiện như vậy, thiên nhiên ñã tạo ra ở ñây một cơ chế lí
tưởng, ñó là những thảm thực vật nhiều tầng. Cấu trúc của rừng gồm có: cây lớn với tán rộng,
cây nhỡ dưới tán của những cây lớn, cây nhỏ và ưa bóng dưới tán của những cây nhỡ, ñất có
cỏ và lớp thảm mục. Ánh sáng gay gắt phần lớn ñược lá cây sử dụng và không bao giờ rọi
trực tiếp xuống mặt ñất. Tác dụng tiêu cực của mưa lớn và tập trung với ñất bị thảm thực vật
dầy ñặc nhiều tầng triệt tiêu, tác dụng tích cực của nước mưa ñược thảm thực vật lưu giữ tối
ña.
c) Nông nghiệp trong hệ sinh thái nhiệt ñới
Khí hậu cực ñoan và sự phân huỷ nhanh chóng chất hữu cơ diễn ra một cách tích cực
trong rừng không hoạt ñộng theo cùng một kiểu như chúng xảy ra trong NN. Canh tác NN bắt
ñầu bằng việc chặt và khai hoang rừng. Bằng cách ñó, khoảng 90% tổng chất dinh dưỡng bị
lấy ñi khỏi ñất, và ñất trở nên thiếu chất hữu cơ, mất dần ñộ phì cũng như giảm thiểu khả năng
giữ nước và các phẩm chất tốt khác. Hơn nữa ánh sáng gay gắt và nhiệt ñộ cao tác ñộng trực
tiếp vào mặt ñất, làm thoái hoá cấu trúc ñất. Mưa dữ dội làm xói mòn lớp ñất mặt vốn màu
mỡ
Hệ sinh thái nhiệt ñới rất cực ñoan nhưng sự cân bằng lại cũng rất mỏng manh. ðiều ñó
ñặt ra nhiệm vụ cấp thiết cho các nhà nông học và các nhà Sinh thái học là phải xây dựng
ñược những hệ canh tác thích hợp, có khả năng sử dụng cao các ưu thế của vùng nhiệt ñới và
giảm thiểu tới mức tối ña các tác ñộng tiêu cực của khí hậu nhiệt ñới, sử dụng hợp lí các
nguồn lợi. Nếu chúng ta có ñược những HSTNN thích ứng với ñiều kiện ở ñây, thì các hệ sinh
thái này cho năng suất và sản lượng cao hơn nhiều so với các HSTNN ôn ñới.
2.9 Xây dựng hệ canh tác bền vững
2.9.1 Những nguyên nhân dẫn ñến canh tác không bền vững
ðộc canh và canh tác liên tục là trái với tự nhiên xét trên quan ñiểm Sinh thái học.
Những hệ canh tác này dễ làm bùng nổ dịch hại và làm suy thoái ñất.
a) ðộc canh

ðộc canh là hiện tượng chỉ trồng một hay rất ít loài (hay giống) trên một khu ñất liên
tục trong nhiều năm nhằm thu càng nhiều lợi nhuận càng tốt. Thực ra thì những nông dân
giầu kinh nghiệm cũng ñã biết là ñộc canh có rủi ro lớn, dễ bị mất mùa vì thiên tai và dịch
bệnh. Nhưng trong nhiều trường hợp họ vẫn phải làm vì sức ép phải nuôi sống gia ñình
trong thời gian trước mắt, hoặc do thiếu vốn, thiếu tư liệu sản xuất. Hiện nay do có nhiều
phân hoá học và thuốc bảo vệ thực vật có hiệu lực cao và nhanh, nên nhiều người ñã canh
tác ñộc canh với các giống mới năng suất cao nhằm tạo ra nhiều sản phẩm hàng hoá tức
th
ời.

76

Những hậu quả tiêu cực chủ yếu của ñộc canh là:
 Dịch bệnh dễ gây hại khi chỉ trồng trọt một loài cây;
 Giảm sút tài nguyên di truyền. Nhiều người ñã lãng quên các giống bản ñịa vốn rất quan
trọng trong duy trì tính ña dạng di truyền, và người ta chỉ còn biết ñến các giống lai
năng suất cao.
 Rủi ro kinh tế lớn. Chỉ trồng một loài cây, dễ bị thiên tai hay sâu bệnh làm cho mất mùa
hoàn toàn. Ngay cả khi ñược mùa thì giá cả của loại nông sản ñó rất dễ bị giảm thấp do
vượt quá nhu cầu của thị trường. ðộc canh chưa bao giờ làm cho kinh tế nông hộ ổn
ñịnh.
b) Canh tác liên tục
Canh tác liên tục có nghĩa là một số loài cây nhất ñịnh ñược gây trồng trên cùng một
mảnh ñất hàng năm hoặc theo mùa liên tục. Những khó khăn thường gặp là:
 Làm mất cân bằng dinh dưỡng ñất, cụ thể là làm thiếu một vài chất dinh dưỡng nào ñó,
nhất là các nguyên tố vi lượng, ví dụ ở nhiều ruộng lúa miền Bắc thường bị thiếu kẽm
và lưu huỳnh. Nguyên nhân là việc canh tác liên tục cùng một loại cây ñòi hỏi những
chất dinh dưỡng như nhau liên tục, trong khi việc sử dụng phân hoá học chỉ cung cấp
ñược một số nguyên tố ña lượng hay vi lượng nào ñó. ðể khắc phục, nhất thiết phải tiến
hành luân canh và bón phân hữu cơ cho ñất.

 Dịch bệnh. Vùng quanh rễ cây rất ñặc biệt và khác hẳn so với các nơi khác trong ñất về
mặt hoạt ñộng của vi sinh vật. Thường các vi sinh vật hoạt ñộng mạnh ở vùng rễ do có
nhiều chất tiết ra từ rễ. Mỗi vùng quanh rễ của một loài hay giống cây ñều có những
ñiều kiện riêng biệt cho những vi sinh vật ñặc biệt. Ví dụ, vùng quanh rễ cây cà chua
thường thuận lợi cho việc phát triển giun tròn (tuyến trùng) gây hại, còn của cây ngũ
cốc như cây ngô lại hầu như không có. Do vậy, nếu cứ canh tác liên tục thì sẽ tạo ñiều
kiện thuận lợi cho một số sinh vật gây hại phát triển, và do ñó rất dễ làm nảy sinh các
bệnh ñặc biệt.
C) Khai thác quá mức
ðất chỉ có khả năng cung cấp một lượng dinh dưỡng nhất ñịnh cho cây trồng.
Nếu trong quá trình canh tác ta không tìm cách bổ sung hoặc ñể cho ñất có thời gian tự
tái tạo nguồn dinh dưỡng ñã bị mất cho cây trồng thì ñất sẽ bị nghèo kiệt dinh dưỡng, vụ
trồng sau sẽ giảm năng suất. ðối với sản xuất nương rẫy của ñồng bào vùng ñất dốc, sau
một thời gian canh tác khi thấy năng suất cây trồng giảm sút ñáng kể họ phải dừng lại ñể
cho ñất nghỉ sau một thời gian mới canh tác trở lại. Nếu cứ tiếp tục canh tác, ñất sẽ quá
nghèo kiệt dinh dưỡng, trở thành ñất ñồi trọc sau sẽ khó phục hồi, không canh tác ñược
nữa.
ðất cần ñược bảo vệ ñể có thể tự nó tái tạo dinh dưỡng ñã bị cây trồng lấy ñi.
ðiều này thể hiện rất rõ khi người dân phát nương làm rẫy, nếu phát hết tận ñỉnh ñồi
sẽ không còn cây giữ nước làm cho nương nhanh bị khô cằn, suy thoái nhanh. Mặt khác
nếu nói trên phạm vi rộng sẽ không còn nguồn gốc của các cây trồng tự nhiên cho tái tạo
sau này mà dẫn ñến khả năng phục hồi của ñất rất kém.
2.9.2 Phương pháp canh tác bền vững (cải tiến hệ thống canh tác)
ðể giải quyết các khó khăn về dịch bệnh và mất cân ñối dinh dưỡng, cần áp dụng những
hệ thống canh tác thay thế, nhất thiết không nên ñộc canh. Một số hệ thống thay thế nằm ngay
trong các ph
ương thức canh tác cổ truyền như vừa ñề cập ở trên, như là canh tác nhiều loài
(ña canh), luân canh, canh tác kết hợp

77


ðể thực hiện một hệ thống canh tác thay thế, cần hiểu rõ về phân loại cây trồng. Tất cả
các loại cây trồng ñều ñã ñược phân loại theo những ñặc tính Thực vật học, nhưng cách phân
loại này không mấy dễ hiểu với nông dân. Nông dân thường phân loại theo mùa vụ hay mục
ñích sử dụng, ví dụ: cây lương thực (cây ngũ cốc), cây họ ñậu, cây rau, cây ăn củ
a) Canh tác nhiều loài
Nên gieo trồng nhiều loài hay giống cây trên một mảnh ñất, ở ñó có một hay vài loài
cây chính và nhiều loài cây phụ. ðiều ñó làm giảm dịch bệnh và nguy cơ mất mùa của trang
trại.
b) Luân canh
Nên trồng luân phiên nhiều loại cây trồng khác nhau theo thời gian trên cùng một mảnh
ñất. ðiều ñó làm giảm sự thoái hoá ñộ phì, mất cân bằng hay thiếu dinh dưỡng và giảm bớt
dịch hại. ðể xây dựng chế ñộ luân canh, người ta thường quan tâm ñến hai vấn ñề:
 Mức ñộ và loại dinh dưỡng cây tiêu thụ. Ví dụ, sau khi trồng cây cần nhiều dinh dưỡng
thì trồng cây cần ít dinh dưỡng hơn về một vài yếu tố nào ñó. Mức tiêu thụ dinh dưỡng
từ thấp ñến cao là: cây họ ðậu, cây lấy củ, rau, cây ăn quả và cây ngũ cốc. Như vậy là
cây họ ñậu cần ít dinh dưỡng nhất, ñồng thời nó còn có khả năng cung cấp thêm N cho
ñất. Do vậy, nên ñưa cây họ ñậu vào chu kì luân canh.

 Tính chống chịu sâu bệnh hại. Xếp theo khả năng chống chịu dịch hại từ cao xuống thấp
là: cây ngũ cốc, cây lấy củ, cây họ ðậu, rau, cây ăn quả. Như vậy, cây ngũ cốc có thể
làm “sạch” hay “chữa bệnh” cho ñất, làm giảm thiểu dịch hại (ñiều này không ñúng cho
ñất trồng cây ngũ cốc liên tục). Do vậy, cần ñưa cây ngũ cốc vào hệ thống luân canh
trong các hệ thống còn “vắng bóng” cây ngũ cốc.

c) Canh tác kết hợp
Hệ thống canh tác kết hợp là một biến dạng của kiểu canh tác nhiều loài với việc trồng
nhiều loài cây khác nhau trên cùng một lô ñất. Ví dụ trồng ngô xen ñậu. Ngô là loại cây rễ ăn
sâu và cần nhiều dinh dưỡng, ñậu là cây rễ ăn nông và cần ít dinh dưỡng lại cung cấp ñạm cho
ñất. Không có sự cạnh tranh ñáng kể nào giữa ngô và ñậu: ngô dùng ñạm do cây họ ðậu cố

ñịnh, ñậu dùng thân ngô làm giá leo hay là cây che bóng Tổng sản lượng của ngô và ñậu cao
hơn là sản phẩm riêng rẽ của từng loài.


78


Hình 3-1. Hệ thống kết hợp lợn - cá - vịt - rau
Lợi ích của canh tác kết hợp là giảm ñược sâu bệnh, ñồng thời sử dụng ñất, ánh sáng,
nước mưa tốt hơn. Các vấn ñề cần quan tâm là:
 Tiêu thụ dinh dưỡng và loại dinh dưỡng cây có nhu cầu, ñặc biệt các loài cây trồng kết
hợp;
 ðộ sâu của rễ. Cây trồng có ñộ sâu rễ khác nhau thường không cạnh tranh dinh dưỡng
và nước với nhau. Ví dụ: xen giữa ngô với bí ñỏ trên nương của ñồng bào thiểu số (rễ
ngô ăn sâu, rễ bí ăn nông);
 Các loài cây ñuổi côn trùng. Một số loài cây tiết ra hoạt chất có khả năng xua ñuổi côn
trùng. Ví dụ, hành toả ra mùi mà phần lớn các loại bướm không ưa. Nếu trồng hành với
cải bắp thì hành sẽ ngăn chặn sâu tấn công cải bắp. Cây hành trong trường hợp này
ñược gọi là cây “ñồng hành”. Sử dụng cây ñồng hành là một biện pháp phòng chống
sinh học có hiệu quả;
 Tính chịu bóng. Một số cây ưa bóng hay chịu bóng chỉ sinh trưởng tốt dưới tán cây
khác.

Trên thế giới cũng như ở Việt nam có vô vàn các công thức kết hợp giữa các loại cây NN với
nhau, giữa cây NN với cây rừng (gọi là nông lâm kết hợp - agroforestry); những công thức
này còn mở rộng cho cả ngành chăn nuôi và nuôi trồng thuỷ sản. Mô hình VAC ở nước ta là
một ví dụ ñiển hình.

d) Một số biện pháp kỹ thuật cho canh tác bền vững


Làm ñất tối thiểu
Che phủ ñất
Trồng cây theo ñường ñồng mức
Bón phân cân ñối
2.9.3 Các hệ thống nông nghiệp bền vững ở Việt Nam
Truyền thống canh tác bền vững
Các hệ thống NNBV ñã có trong các hệ thống ñịnh canh truyền thống của người Việt
Nam. T
ừ lâu ñời, người nông dân Việt Nam ñã biết áp dụng các hệ canh tác luân canh, xen
canh, gối vụ, canh tác kết hợp trồng trọt - chăn nuôi - thuỷ sản - ngành nghề.
Thức ăn bổ sung
CHUỒNG LỢN

Bán lợn
Nước rửa
chuồng
Phế liệu


(Ao)
VỊT
Bán cá
Bán vịt
Phế liệu

Rau Bán rau
Th
ực vật thuỷ
sinh
Tưới


79

Những hệ thống ñịnh canh ở Việt Nam không phải chỉ hoàn toàn là ñộc canh lúa. Ở
ñồng bằng sông Hồng, hệ canh tác là một tổ hợp cây trồng phong phú: lúa và hoa màu trên
ñồng ruộng; cây thực phẩm, cây ăn quả, cây công nghiệp, cây vật liệu ở trong vườn, ở hàng
rào; chăn nuôi trong vườn nhà; thả cá trong ao, ngoài ñồng; thủ công nghiệp dùng nguyên liệu
sẵn có từ NN. Có nhiều cách kết hợp như nuôi cá ngoài ruộng lúa, thả vịt sau mùa gặt hái, làm
chuồng lợn gần (hay trên) ao thả cá Mỗi cây dùng vào nhiều mục ñích: cây tre bảo vệ xóm
làng, cung cấp nguyên liệu cho xây dựng, ñan lát; cây mít cây nhãn cho quả và gỗ, lại là cây
che bóng, chắn gió hại; cây dâu lấy lá nuôi tằm lấy tơ dệt áo quần, nhộng là một món ăn giầu
ñạm, sản phẩm phụ của nghề tằm tang làm phân bón cho ruộng, cho vườn. Các loài cây lâu
năm tạo môi trường trong lành cho một “ổ sinh thái” trong ñó có nếp nhà của nông hộ với
“vườn sau ao trước”, hàng cau che nắng nhưng không làm u tối căn nhà, bể hứng nước mưa,
chuồng lợn chuồng gà; ao nuôi cá có bụi chuối, cây chanh ven bờ, có giàn mướp giàn bí trên
mặt ao
Hệ thống kênh mương thuỷ lợi ñã có từ thế kỷ thứ I sau Công nguyên, nhưng chỉ thực
sự ñược chú ý mở mang vào thế kỉ X - XI ở phía Bắc và thế kỷ XVI ở phía Nam. Truyền
thống thâm canh ñược ñúc kết trong rất nhiều dân ca, tục ngữ như “nước, phân cần, giống”,
“nhất thì nhì thục”, thể hiện bằng những kĩ thuật dùng bèo hoa dâu trong thâm canh lúa (thế
kỷ XI), cày ải, phơi ải ñất lúa “hòn ñất nỏ bằng giỏ phân”, cày vặn rạ, dùng phân chuồng,
phân xanh, phân bắc, sáng tạo những giống cây quí về lương thực, thực phẩm thích ứng với
từng ñiều kiện sinh thái, kể cả với những loại ñất có vấn ñề, còn lưu giữ ñến tận ngày nay; có
những hệ thống luân canh, xen canh, gối vụ truyền thống: hai vụ lúa-một vụ ñậu tương, xen
ñậu với ngô, với dâu tằm
Hệ thống NN “ñịnh canh” ở vùng ñồi núi ñặc trưng bởi các loại ruộng, vườn bậc thang:
ñể lại chỏm cây trên ñỉnh ñồi, san ruộng bậc thang theo ñường ñồng mức, trồng cây theo bờ
ruộng bậc thang (cốt khí, dứa dại, dứa ăn quả ) ngăn ñất rửa trôi, ñắp ngăn các chỗ trũng làm
nơi chứa nước tưới lúa, nuôi cá. Người ta thấy ruộng bậc thang ñã xuất hiện từ thế kỷ XVI -
XVII ở vùng ñồi núi Nam Trung bộ. Từ lâu, người ta ñã biết lợi dụng nguồn nước tự chảy ñể

ñưa nước từ suối về nhà làm nước sinh hoạt và nước sản xuất (nước lấn), lợi dụng ñể giã gạo,
chế tạo cọn (guồng) ñể ñưa nước lên nhiều bậc ñể tưới. Cũng chính nông dân miền núi ñã
sáng tạo ra vụ lúa mà sau này thành vụ lúa xuân ở ñồng bằng. Họ cũng tạo ra nhiều loại cây,
con quý nổi tiếng trong cả nước (nếp Tú Lệ, quế Trà Mi, hồi Lạng Sơn, trâu Yên Bái, lợn
Mường Khương, v.v ). Họ cũng sáng tạo ra nhiều công thức nông lâm kết hợp, nuôi cá lồng
ở suối sau thành nuôi cá lồng, cá bè ở nhiều vùng ñồng bằng
Ở vùng ven biển, người ta khắc phục hiện tượng cát ñụn, cát bay bằng cách trồng các
hàng cây chắn gió; trồng rừng ngập mặn ñể lấn biển. Những hệ thống ñịnh canh ở Nam bộ ñã
hình thành trên những “giồng” ñất có nước ngọt, những vùng ñất cao ven sông, ñất cù lao
giữa sông. Người ta dùng trâu cày nơi ruộng thấp, dùng dao, cuốc loại bỏ lau lách, cỏ lác cào
ñắp vào bờ nơi ruộng sâu (“khai sơn trảm thảo”), ñào kênh mương ñể tưới tiêu, thau chua rửa
mặn, ñắp bờ giữ nước mưa, dưới mương thả cá, trên bờ trồng cây. ðặc biệt là kĩ thuật lên liếp
làm vườn: giữa hai mương là liếp ñất cao. Khi nước vào, phù sa lắng xuống ñáy mương, khi
nước xuống, phù sa ñược lấy lên ñắp vào gốc cây làm phân bón. Kĩ thuật lên liếp này cũng
thấy xuất hiện ở Mêhicô, Hà Lan. Miệt vườn Nam bộ là quê hương của nhiều giống cây ăn
trái nổi tiếng, là môi trường sống tốt lành cho người dân.
Như vậy, các hệ canh tác ở các vùng NN nước ta ñã có tác dụng tự bảo tồn, tự chống ñỡ
ñể phát triển. Dưới ñây, chúng ta cùng xem xét và thảo luận thêm về việc xây dựng ở nước ta
các hệ canh tác bền vững.
a) Các h
ệ nông lâm kết hợp

80

Từ rất xa xưa, nhiều dân tộc sống ở vùng núi ñã sáng tạo ra rất nhiều các phương thức
luân canh rừng - rẫy.
Người Giarai, Êñê ở Tây nguyên làm rẫy trên ñất bazan màu mỡ, dốc thoải; rừng che
phủ có tác dụng phục hồi ñộ phì ñất sau nương rẫy. Mật ñộ dân cư thưa thớt, thời gian bỏ hoá
kéo dài trên 10 năm, cả ñất và rừng ñều không bị suy thoái, ñất và rừng ñủ nuôi người và
người không tàn phá rừng và ñất. Mật ñộ dân số tăng lên, thời gian bỏ hoá ngày một co ngắn

lại. Rừng tái sinh sau nương rẫy chưa ñủ thời gian phục hồi ñộ màu mỡ cho ñất ñã lại bị chặt
và ñốt. ðất thoái hoá dần, năng suất cây trồng giảm dần, rừng tái sinh biến mất nhường chỗ
cho những trảng cỏ hoặc cây bụi. Môi trường bị ñảo lộn. Mùa khô nghiệt ngã kéo dài tới 6
tháng dễ làm các trảng cỏ và cây bụi bốc cháy, ñất lại càng trơ trọi với gió và nắng. Diện tích
ñất ñỏ trên ñá bazan thoái hoá không ngừng mở rộng.
Người Mường ở Thanh Hoá, Hoà Bình từ xưa ñã có tập quán gieo hạt xoan sau phát
nương, nhiệt ñộ cao khi ñốt rẫy kích thích hạt xoan nảy mầm ñều và khoẻ. Chăm sóc lúa
nương cũng là chăm sóc xoan. Mật ñộ xoan khoảng 1000-1500 cây/ha. Sau 3 vụ lúa nương,
rừng xoan khép tán, hình thành rừng hỗn giao hai tầng xoan-tre nứa. Xoan là cây mọc nhanh,
ña dụng rất ñược người Kinh, người Mường ưa chuộng. Tre nứa và măng cũng tạo ra nguồn
thu ñáng kể. Sau hơn 8 năm, người ta có thể thu hoạch xoan và tre nứa ñể tiếp tục một chu kì
canh tác mới với lúa nương và xoan. Người ta cũng làm như vậy khi xen luồng với lúa, với
ngô nương. Hệ canh tác này bền vững qua nhiều thế kỷ.
ðồng bào vùng cao Yên Bái, Quảng Ninh, Quảng Nam có tập quán trồng quế kết hợp
lúa nương và sắn. Lúa nương và sắn là cây che bóng cho quế non trong suốt 3 năm ñầu.
Nhiều dân tộc khác ở ðông nam Á cũng có các phương thức canh tác kết hợp tương tự
giữa cây lương thực ngắn ngày với cây lâm nghiệp, như các phương thức Taungya ở
Myanmar, hay Kabun-Talun ở Indonesia.
Thuật ngữ Nông lâm kết hợp (Agroforestry) ñược sử dụng nhiều trên thế giới trong
những năm gần ñây chứa ñựng một khái niệm ngày càng mở rộng. NLKH bao gồm các hệ
canh tác sử dụng ñất ñai hợp lí, trong ñó các loại cây thân gỗ ñược trồng và sinh trưởng trên
các dạng ñất canh tác NN hoặc ñồng cỏ chăn thả gia súc. Và ngược lại, các cây NN cũng ñược
trồng trên ñất canh tác lâm nghiệp. Các thành phần cây thân gỗ và cây NN ñược sắp xếp hợp
lí trong không gian, hoặc ñược kế tiếp nhau hợp lí theo thời gian. Giữa chúng luôn luôn có tác
ñộng qua lại lẫn nhau về phương diện sinh thái và kinh tế. Từ “kết hợp” nói lên sự gắn bó hữu
cơ giữa cây NN với cây lâm nghiệp, giữa cây dài ngày với cây ngắn ngày trên cùng một diện
tích canh tác, một vùng lãnh thổ hay một ñịa bàn sản xuất.












V- ê n r õng Ao V- ê n ®åi Khu nhµ ë Rué ng l óa

V. ®å i

81

Hình 3-2. Lát cắt ngang mô tả một hệ nông lâm kết hợp ở Trung du
Thành phần của hệ canh tác NLKH bao gồm:
 Cây thân gỗ sống lâu năm;
 Cây thân thảo (cây NN ngắn ngày hoặc ñồng cỏ);
 Vật nuôi (ñại gia súc, gia cầm, chim thú hoang, thuỷ sinh ).
Người ta có thể xếp các hệ trên thành các nhóm:
Hệ canh tác nông - lâm kết hợp
Mục ñích sản xuất NN là chính, việc trồng xen các loại cây thân gỗ lâu năm nhằm mục
ñích phòng hộ cho cây NN (chắn gió hại, chống xói mòn, cải tạo ñất, giữ nước, che bóng ),
giúp thâm canh tăng năng suất cây trồng NN kết hợp cung cấp gỗ, củi. Việc trồng cây lâm
nghiệp trên ñất NN không ñược làm giảm năng suất cây trồng chính. Ở nước ta, có thể lấy ví
dụ mấy kiểu canh tác nông - lâm kết hợp sau ñây:
 Các ñai rừng phòng hộ cản sóng, chủ yếu là các dải rừng chắn sóng bảo vệ ñê biển, bảo
vệ sản xuất nông nghiệp;
 Kiểu ñai rừng phòng hộ, chống gió hại, như các dải rừng phi lao chống gió và cát bay;
 Kiểu các ñai rừng phòng hộ chống xói mòn ñất và gió hại ở vùng núi và cao nguyên.


Hệ canh tác lâm - nông kết hợp
Trong hệ canh tác này, mục ñích sản xuất các sản phẩm lâm nghiệp là chính. Việc trồng
xen cây trồng NN là kết hợp, nhằm hạn chế cỏ dại, thúc ñẩy cây rừng phát triển nhanh hơn,
tạo ñiều kiện chăm sóc và bảo vệ rừng trồng tốt hơn, kết hợp giải quyết một phần khó khăn về
lương thực, thực phẩm ở vùng ñồi núi. Có những kiểu sau ñây:
 Trồng xen cây NN ngắn ngày với cây rừng trong giai ñoạn ñầu khi cây rừng chưa khép
tán. Có thể là trồng xen cây NN với cây rừng ưa sáng như bồ ñề, tếch, tre, luồng; hay
trồng với cây rừng trong giai ñoạn cây rừng còn non không ưa ánh sáng trực xạ mạnh
như cây mỡ, quế,
 Kiểu trồng xen các cây lương thực, thực phẩm, dược liệu dưới tán rừng: cà phê, chè,
dứa ta dưới tán rừng lim; sa nhân, thảo quả, gừng dưới tán rừng già,

Hệ rừng - vườn, vườn - rừng
Hệ này có ý nghĩa rất quan trọng trong canh tác trên ñất dốc. Có các loại:
 Kiểu rừng lương thực, thực phẩm, dược liệu: dẻ, sến, ñào lộn hột, dừa, quế, hồ,i
 Kiểu các cây công nghiệp thân gỗ sống lâu năm: cà phê với muồng ñen; chè và trẩu; hồ
tiêu và cây gỗ thừng mực,
 Vườn quả: nhãn, táo, vải, chôm chôm,
 Vườn rừng, rừng vườn: kiểu hai tầng thân gỗ: tầng cao nhất là mít, tầng 2 là chè; kiểu
ba tầng thân gỗ: tầng cao là sầu riêng (ưa sáng hoàn toàn), tầng 2 là măng cụt, dâu (cây
trung tính về ánh sáng), tầng 3 là bòn bon (cây ưa bóng hoàn toàn).

Hệ canh tác nông - lâm - mục kết hợp
 Kiểu ñồng cỏ trồng xen các loại cây thân gỗ lâu năm mọc rải rác và tạo thành các băng
rừng ngăn súc vật, áp dụng chăn thả ñồng cỏ chăn thả luân phiên, chú ý phát triển các

82

loại cây gỗ họ ðậu vừa có khả năng nâng cao ñộ phì cho ñất vừa có khả năng làm thức

ăn gia súc.
 Kiểu chăn nuôi dưới tán rừng: kết hợp chăn thả gia súc dưới tán rừng phi lao trên ñất cát
biển hay dưới tán rừng tre luồng của miền trung du.
 Kiểu trồng xen các cây lương thực thực phẩm cùng với chăn thả gia súc dưới tán rừng.

Các hệ canh tác kết hợp nông lâm với chăn nuôi và thuỷ sản
 Kiểu rừng ngập mặn với nuôi tôm, cá;
 Kiểu rừng tràm với nuôi cá và ong;
 Kiểu rừng tràm với cấy lúa, kết hợp nuôi cá và ong;
 Kiểu các vườn quả, vườn rừng, rừng vườn với nuôi ong; rừng tràm, rừng ngập mặn,
rừng bạch ñàn với nuôi ong,
Những hệ nông lâm kết hợp ña dạng như vậy (có chăn nuôi gia súc, gia cầm, ong, nuôi
trồng thuỷ sản) ñã ñược mở rộng trên nhiều loại ñịa bàn: vùng ñất cát và cồn cát ven biển,
vùng ñất ngập mặn ven biển, vùng ñất phèn, vùng phù sa châu thổ, vùng ñất ñồi và cao
nguyên, vùng núi.
b) Hệ sinh thái VAC
VAC là các chữ ñầu viết tắt của hệ sinh thái Vườn - Ao - Chuồng. Ở miền núi và trung
du, ñôi khi người ta còn gắn thêm chữ R là Rừng vào tổ hợp từ viết tắt này, thành hệ sinh thái
RVAC. Vườn chỉ các hoạt ñộng trồng trọt; Ao chỉ các hoạt ñộng nuôi trồng thuỷ sản; Chuồng
chỉ các hoạt ñộng chăn nuôi trên cạn. ðây là các hoạt ñộng kết hợp với nhau trong một hệ
sinh thái khép kín, trong ñó có cả con người. Các sản phẩm của V (rau, ñậu, củ, quả), của A
(cá, tôm, cua), của C (thịt, trứng, sữa) ñược sử dụng ñể nuôi người hoặc ñể bán; và các chất
thải của hệ phụ nọ sẽ ñược sử dụng như nguồn dinh dưỡng của hệ phụ kia.
Thực ra thì hệ sinh thái VAC vốn là truyền thống canh tác lâu ñời của người nông dân
Việt Nam. Cụ Tam Nguyên Yên ñã mô tả bức tranh về làng quê Việt Nam trên cơ sở hệ sinh
thái VAC trong một bài thơ thất ngôn bát cú nổi tiếng với những Ao sâu,Vườn rộng của cụ.
Nhân dân ta ñã khai thác vườn, ao theo chiều sâu, tận dụng tối ña tài nguyên ñất, ánh sáng,
nhiều tầng, nhiều loài, mô phỏng theo kiểu của hệ sinh thái rừng nhiệt ñới. Vườn, ao, chuồng
lại ñều ở gần nhà nên tận dụng ñược lao ñộng, tiện quản lí và chăm sóc; thế nên “nhất canh
trì, nhì canh viên, ba canh ñiền”.

Hệ sinh thái VAC là một mô hình hiệu quả thể hiện chiến lược tái sinh: tái sinh nguồn
năng lượng mặt trời qua quang hợp của cây trồng, tái sinh các chất thải (vật thải của công
ñoạn sản xuất này là nguyên liệu cho quy trình sản xuất khác). Chiến lược tái sinh này còn
làm thanh sạch môi trường.
Người nông dân quen gọi kinh tế VAC là “kinh tế vườn” có vai trò to lớn trong cung
cấp dinh dưỡng cho nông hộ, tạo thêm công ăn việc làm, tạo thêm của cải cho xã hội. Làm
vườn theo cách này ñã tạo ra những hệ sinh thái bền vững, cảnh quan trong lành, góp phần gìn
giữ và cải thiện môi trường. Nhiều gia ñình nông dân ñã có trang trại gia ñình dựa trên các
nguyên lí của VAC (Hình 3-3;3-4).
Từ những ñiều ñã nói ở trên có thể thấy, thực chất của mối quan hệ tương tác giữa các
thành phần, các yếu tố trong hệ sinh thái VAC là sự luân chuyển, quay vòng (recycle) của các
dòng vật chất và năng lượng giữa Vườn-Ao-Chuồng thông qua hành vi có ý thức của con
ng
ười, nhằm:

83

 Tận dụng không gian sinh thái ba chiều của vùng nhiệt ñới giầu ánh sáng, nhiệt ñộ và
ñộ ẩm.

Hình 3-3. Sơ ñồ mô hình (R)VAC
 Khai thác các nguồn tài nguyên tái sinh và tái sử dụng các chất thải của cây trồng, vật
nuôi ñưa vào chu trình sản xuất mới.
 Hạn chế sự suy giảm các nguồn tài nguyên không tái tạo (chủ yếu là sự xói mòn của
ñất).
 Làm ra sản phẩm nhiều hơn, ña dạng hơn, có chất lượng tốt hơn trên cùng một ñơn vị
diện tích canh tác.











Hình 3-4. Sơ ñồ hệ sinh thái VAC
Có thể biểu diễn mối quan hệ tương tác giữa Vườn - Ao - Chuồng thông qua hành vi
của con người như trong hình 3-3, 3-4.
2.10 Nông nghiệp bền vững và nông nghiệp sạch
NN sạch là nhằm sản xuất ra các nông phẩm sạch, khắc phục những nguyên nhân gây ô
nhiễm của NN thương mại, nhất là do sử dụng nhiều Nitrat và các hoá chất trong phòng trừ
dịch hại. Việc lạm dụng hoá chất trong NN không những làm nhiễm bẩn môi trường, làm tăng
chi phí s
ản xuất mà còn làm suy giảm sức khoẻ người tiêu dùng.

84

Ô nhiễm trong NN là vấn ñề khó khắc phục vì nó trải rộng trên một diện tích rộng
(người phun thuốc trừ sâu ở thượng nguồn một lưu vực có khi lại gây hậu quả tiêu cực cho
người ở hạ lưu), vì vậy không thể dùng các “trạm lọc” như người ta ñã làm với một nhà máy
hay một bệnh viện. Cách khắc phục duy nhất ở ñây là sản xuất sạch.
Hạn chế sử dụng các muối nitrat
 Căn cứ theo nhu cầu của cây mà ñiều chỉnh lượng ñạm cần bón bằng cách chỉ bón vào
những lúc thiết yếu nhất. Ta cũng có thể ño hàm lượng ñạm trong ñất và trong cây ñể
quyết ñịnh liều lượng và thời gian bón thích hợp, vừa tránh làm nhiễm bẩn môi trường,
vừa tiết kiệm vật tư NN.
 Cải tiến cách bón phân: người ta bơm phân bón thể lỏng hoặc thể khí vào lòng ñất ở ñộ
sâu của rễ cây nhằm làm tăng khả năng hấp thụ phân bón và giảm ñược hao phí phân

bón.
 Tránh ñể ñất mất ñạm: chủ yếu là tránh ñể ñất trống do không ñược thực vật hay lớp
phủ che mặt ñất. ðể khắc phục, người ta trồng cây vào những lúc ñất nghỉ (ví dụ như vụ
ñông) ñể chúng hấp thu lượng ñạm hoá học còn tồn dư trong ñất do cây trồng trước ñể
lại và giữ cho ñất khỏi bạc màu. Sau vụ ñông, có thể thu hoạch chúng hay cày vùi chúng
tạo thêm phân xanh cho ñất.

Lí tưởng nhất là tìm ra phương thức ñể cây trồng tự ñáp ứng nhu cầu ñạm bằng cách
hấp thụ trực tiếp N khí quyển (khí quyển chứa tới 79% nitơ, nghĩa là sinh vật ñang sống trong
một thế giới ngập tràn nitơ nhưng lại bị “ñói” ñạm!) như cách các cây họ ñậu thường sống.
Trong ñấu tranh phòng chống dịch hại người ta ñang cố gắng ñể các phương pháp sinh
học trong phòng trừ dịch haị tổng hợp (IPM) ngày một hữu ích và thiết thực hơn (dùng
hoocmôn làm rối loạn các chức năng sinh lí của loài gây hại; áp dụng biện pháp ñấu tranh
sinh học ).
NN “không sạch” tất nhiên cũng là NN không bền vững, vì:
 Nông sản làm ra do sử dụng nhiều phân hoá học, thuốc trừ sâu, chất kích thích, thuốc
bảo quản và các phụ gia chế biến thường có chất lượng dinh dưỡng kém, ñộ cảm quan
thấp, tăng tỉ lệ nước, chứa các dư lượng hoá chất ñộc hại.
 Các loại hoá chất dùng trong NN không chỉ làm nhiễm bẩn nông sản mà còn gây ô
nhiễm lâu dài ñến môi trường ñất, nước, không khí, và làm suy giảm tài nguyên sinh
học (chế ñộ ñộc canh và nạn ô nhiễm làm mất mát những nguồn gen quý giá cho tương
lai).
 Tác ñộng tiêu cực lên sức khoẻ người sử dụng hoá chất (do thiếu các phương tiện bảo
hộ lao ñộng phù hợp), tích lũy trong cơ thể người tiêu dùng.

Phấn ñấu cho một cuộc sống no ñủ, xoá ñói giảm nghèo và tăng cường sức khoẻ con
người là những vấn ñề không tách rời nhau. Muốn có sức khỏe thì thức ăn nước uống phải
ñảm bảo chất lượng dinh dưỡng và không bị ô nhiễm. NN sạch và NNBV có giá trị thực tiễn,
mỗi gia ñình, mỗi cộng ñồng ñều có thể thực hiện ñược.
NN sạch và NNBV phải nằm trong hệ thống chiến lược của toàn xã hội, xuất phát từ tư

tưởng lãnh ñạo và chính sách quốc gia và liên quốc gia:
 Giáo dục con người sống có ñạo ñức, có trách nhiệm với ñồng loại, với sự hưng thịnh
c
ủa Trái ðất; có cuộc sống hiện ñại nhưng thấm nhuần tính nhân văn cao cả, không lãng
phí, ích kỉ, không thoát li cộng ñồng, nêu cao bản sắc dân tộc.

×