Tải bản đầy đủ (.pdf) (15 trang)

Giáo trình -Thổ nhưỡng học - chương 10 ppt

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (899.42 KB, 15 trang )

Chương X
KHÔNG KHÍ VÀ NHIỆT TRONG ÐẤT

1. Không khí trong đất
1.1. Vai trò của không khí trong đất
Các chất khí trong đất rất cần thiết cho sự sống của các sinh vật
sống trong đất, cho các quá trình sinh học tiến hành thuận lợi
Trong số các chất khí, đặc biệt là ôxy và cacbonic có tác động về
nhiều mặt đến các tính chất đất, làm ảnh hưởng trực tiếp hay gián tiếp
đến năng suất cây trồng.
a. Vai trò của ôxy (O
2
)
 Ôxy tác động trực tiếp đến hô hấp của cây trồng. Thiếu ôxy quá trình
hô hấp yếu, cây thiếu năng lượng hoạt động dẫn đến năng suất giảm.
 Ðất thoáng khí (nhiều ôxy) rễ cây phát triển thuận lợi, lấy nước và
thức ăn mạnh, cây sinh trưởng và phát triển nhanh. Ðặc biệt giai đoạn
nảy mầm, cây cần nhiều ôxy nhất.
 Ôxy ảnh hưởng đến điện thế ôxy hoá khử.
 Thiếu ôxy quá trình khử xảy ra mạnh sinh ra một số chất độc trong
đất, giảm trữ lượng chất dinh dưỡng, ảnh hưởng xấu tới cây trồng.
 Trong đất đầy đủ ôxy các quá trình háo khí xảy ra, tạo cho đất có
nhiều đặc tính tốt.
b. Vai trò của khí cacbonic (CO
2
)
 Thành phần tham gia quá trình quang hợp
 Tham gia vào các phản ứng hoá học trong đất, nhất là các phản ứng
hoà tan, góp phần tăng cường thức ăn cho cây. Ví dụ, nếu dung dịch
bão hoà CO
2


thì sẽ hoà tan rất nhiều CaCO
3,
, MgCO
3

 Nếu trong đất có quá nhiều khí CO
2
thì ảnh hưởng xấu đến quá trình
hô hấp của sinh vật, đặc biệt là đối với sự nảy mầm và sự phát triển
của rễ cây non.
1.2. Thành phần và hàm lượng không khí trong đất
Không khí trong đất chiếm tất cả các khe hở không chứa nước, do
đó về số lượng nó phụ thuộc chặt chẽ vào tổng số độ hổng và độ ẩm đất.
Nếu cấu tạo của đất ổn định thì có thể nói rằng trong đất nhiều nước thì
không khí ít. Nói cách khác, về khối lượng, nước và không khí trong đất
đối kháng nhau.
Phần thể tích mà không khí chiếm trong đất ở độ ẩm hiện tại gọi là
độ chứa khí của đất hay độ thông khí của đất, được tính theo phần trăm so
với thể tích chung của đất. Vì độ hổng và độ ẩm đất luôn luôn thay đổi
nên độ chứa khí của đất cũng là một đại lượng biến động trong từng loại
đất khác nhau, theo mùa khác nhau và trạng thái canh tác đất. Ðộ hổng
trong các loại đất khác nhau biến động từ 25 % đến 90 % nên độ chứa
khí cũng biến động trong khoảng ấy nhưng thấp hơn 2 giới hạn trên một ít
vì trong độ hổng còn chứa nước ít hoặc nhiều.
Về nguồn gốc không khí đất gồm các chất khí trong không khí khí
quyển và không khí được sinh ra trong quá trình sinh học, hoá học xảy
ra trong đất.
Về thành phần không khí đất có khác so với không khí trong khí
quyển (bảng 10.1).
Nhiều nghiên cứu cho thấy thành phần không khí khí quyển là ổn

định, đây chính là sự khác biệt so với thành phần không khí đất. So với
thành phần không khí khí quyển, thành phần không khí đất chứa ít ôxy
hơn nhưng cacbonic nhiều hơn và chúng luôn luôn thay đổi, ngay cả nitơ
có khối lượng lớn nhất. Lượng nitơ thay đổi do hoạt động biến đổi chất
hữu cơ của vi sinh vật, do các quá trình nitơrát hoá hay phản nitơrát hoá
xảy ra trong đất
Bảng 10.1. Thành phần khí quyển và không khí đất (% thể tích)
Các chất khí Trong khí
quyển
Trong không
khí đất
Nitơ (N
2
)
Ôxy (O
2
)
Argon (Ar)
Cacbonic (CO
2
)
Các khí khác(Ne, He,
CH
4
, O
3
, Xe)
78,08
20,95
0,93

0,03
0,04
78,08- 80,42
20,90- 0,00
-
0,03- 20,00
-

Lượng chứa nhiều cacbonic, ít ôxy và sự biến động lớn của chúng
là vì:
 Do tiêu hao nhiều ôxy mà sinh ra nhiều cacbonic (như quá trình hô
hấp, phân giải chất hữu cơ, các phản ứng hoá học, quá trình quang
hợp ).
 Do sự thay đổi tốc độ trao đổi không khí giữa đất và khí quyển, giữa
các tầng đất, giữa các mùa trong năm và cả chế độ canh tác.
Ở những tầng đất mặt thoáng khí, tỷ lệ ôxy trong không khí đất gần
ngang với trong khí quyển. Còn ở những tầng quá trình trao đổi khó
khăn như đất glây, đất ngập nước thì lượng ôxy giảm xuống rất mạnh,
thậm chí còn lại phần vạn. Lượng chứa CO
2
thì ngược lại tăng lên.
Theo Monthei và cộng sự (1964) cho rằng: dòng khí CO
2
là 1,5
g/ngày vào mùa đông và 6,7 g/ngày vào mùa hè trên đất sét trống.
Currie (1970) xác định giá trị của khí này là 1,2 g/ngày vào mùa đông
và 16 g/ngày vào trong mùa hè trên đất trống; còn trên đất trồng cải
xoăn giá trị ứng với các mùa này là 3,0 và 35 g/ngày.
Năm 1967, Kemper đưa ra giá trị tiêu hao O
2

trong khoảng 2,5 và
5,0 g/ m
2
/ ngày trên đất trống và giá trị này lớn gấp 2 lần trên đất có
canh tác. Cũng theo Currie (1970) tỷ số tiêu hao O
2
là giữa 60 và 75 %
của tỷ số CO
2
được tạo thành đạt tối đa là 24 g/m
2
dưới cây cải xoăn vào
mùa hè.
Ngoài các chất khí kể trên, trong đất còn có thể một số chất khí khác
được sinh ra như: NH
3
, H
2
S, CH
3

Trong đất các chất khí biến hoá liên tục và được cân bằng theo
phương trình sau:
Khối lượng theo thể tích chất khí đi vào qua diện tích x y* tại z
trong thời gian t = khối lượng chất khí thoát ra qua diện
tiện tích x y tại z+z trong thời gian t
+ Khối lượng chất khí tăng lên theo thể tích được giữ lại trong
thời gian t
+ Khối lượng chất khí theo thể tích mất trong thời gian t bằng
con đường phản ứng hoá học hay sinh học.

1.3. Tính thông khí của đất
Tính thông khí của đất là khả năng di chuyển của không khí qua các
tầng đất. Là nhân tố thường xuyên quyết định tốc độ trao đổi khí giữa
đất và khí quyển, nghĩa là quyết định lượng O
2
và CO
2
trong đất, do đó
ảnh hưởng tới quá trình hoạt động của vi sinh vật, của các phản ứng xảy
ra trong đất, ảnh hưởng trực tiếp hay gián tiếp tới đời sống cây trồng.
Sự di chuyển không khí trong đất chính là quá trình khuếch tán của
khí tiến hành ở các khe hở liên tục, không bị tắc và không chứa nước.
Khe hở càng lớn tính thông thoáng càng cao. Theo kết quả nghiên cứu
ngoài đồng ruộng của Học viện nông nghiệp Timiriazev (CHLB Nga) thì
điều kiện tiên quyết đối với tính thông khí là độ hổng phi mao quản lớn.
Nếu nó đạt trên 10 % thì sự thông khí thực hiện hoàn toàn, khi đó độ ẩm
dù có tăng đến độ ẩm bão hoà thì tính thông cũng không giảm đáng kể.
Ðất sét không có kết cấu nên độ hổng phi mao quản thấp thì tính thông
khí thấp và có thể giảm tới zero ngay cả khi độ ẩm chưa đạt mức bão
hoà. Ðất có kết cấu tốt (độ hổng mao quản và phi mao cao), tính thông
khí lớn cho dù khi độ ẩm rất cao.
W. A. Jury và cộng sự (1986) đã cải biên định luật khuếch tán chất
khí trong tự nhiên của Fick để xác định dòng khí trong đất như sau:
J
g
=
z
C
D
z

C
D
g
s
g
g
a
gg








Trong đó D
a
g
s
g
D

 là hệ số khuếch tan chất khí trong đất; 
g
là hệ số
uốn khúc < 1; 
g
= a, khi  là hằng số, a là hằng số khí theo thể tích,
a

g
D là hệ số khuếch tán không khí trong tự nhiên.

g
được Millingt và Quirk (1961) mô hình hoá thành:

g
= a
10/ 3
/

2

Trong đó:  là độ hổng đất và a phụ thuộc rất lớn vào cấu tạo đoàn
lạp của đất, theo Penma (1940) lấy trong khoảng 0,195< a < 0,676 hoặc
theo Flegg (1953) trong đất 0,35<a < 0,75, có thể lấy < 0, 89 trong đất
đoàn lạp tốt.
1.4. Biện pháp điều tiết không khí trong đất
Muốn điều tiết chế độ không khí trong đất có lợi cho cây trồng và
các sinh vật khác, ta cần áp dụng những biện pháp làm tăng hàm lượng
và cải thiện thành phần các chất khí, điều chỉnh tính thông khí của đất
bằng tổng hợp các biện pháp sau:
- Tăng cường và cải thiện kết cấu đất, làm tăng độ hổng mao quản và
phi mao quản bằng việc cày sâu kết hợp bón nhiều phân hữu cơ hay
trả lại phế phụ phẩm nhiều nhất cho đất.
- Làm tăng độ thoáng khí bằng cách lên luống, làm cỏ sục bùn, xới
xáo (đặc biệt là xới đất phá váng sau khi mưa).
- Xếp ải là biện pháp rất tốt để cải thiện thành phần không khí đất,
làm tăng hàm lượng các hợp chất ôxy hoá, giảm chất khử, chất độc.
- Ðối với những chân ruộng trũng, không có điều kiện làm ải (thời

gian ngắn) nên làm dầm rồi sau đó bừa kỹ.
2. Nhiệt trong đất
2.1. Nguồn nhiệt trong đất và vai trò của nhiệt
Nguồn nhiệt chính cung cấp cho đất là năng lượng từ tia nắng mặt
trời. Hằng số năng lượng mặt trời năng lượng của tia nắng mặt trời chiếu
thẳng góc đến 1 cm
2
đất trong 1 phút, khi trái đất cách mặt trời một
khoảng trung bình. Hằng số này là 1964 Calo/cm
2
/phút. Các quá trình
hao tổn dọc đường phụ thuộc rất nhiều yếu tố: độ dài đường đi, nồng độ
khí, mây mù, góc chiếu. Trong thực tế năng lượng này ít hơn nhiều do
quá trình khúc xạ vào khí quyển và phản xạ từ mặt đất. A. Geiger (1965)
và Chang (1961) cho rằng chỉ khoảng 45 % năng lượng mặt trời đi tới
mặt đất, trong đó lại chỉ có 67 % cung cấp cho đất, phần còn lại hao tổn
theo các con đường khác nhau như: phản xạ, hấp phụ trong không trung
(hình 10.1).
Song song với nguồn nhiệt chính nói trên còn có nguồn nhiệt sinh
ra từ các phản ứng hoá học, sinh học xảy ra trong đất và những nguồn
nhiệt khác như nhiệt thấm ướt, nhiệt từ trong lòng đất, từ các nguyên tố
phóng xạ Tuy nhiên vai trò của các nguồn nhiệt này bé hơn nhiều so
với bức xạ mặt trời.
Chế độ nhiệt thông qua nhiệt độ rất quan trọng đối với quá trình
hình thành và biến đổi của đất, nhiệt độ quan hệ chặt chẽ với quá trình lý
học, hoá học và sinh học xảy ra trong đất.
Nhiệt độ trong đất còn ảnh hưởng trực tiếp đến tất cả các giai đoạn
sinh trưởng và phát triển của cây trồng. Ví dụ, sự phát triển của bộ rễ và
nốt sần ở cây họ đậu, sự phát triển của thân, lá, hoa, kết trái và độ chín
của quả đều đòi hỏi ở nhiệt độ phù hợp.

Trong đất sự hoạt động của các vi sinh vật trong các khoảng nhiệt
độ là khác nhau. Nhìn chung nhiệt độ thích hợp cho các quá trình phát
triển của nhiều loài sinh vật là 25 đến 30
0
C.




Hình 10.1 Phân bố bức xạ ngoài và trên mặt đất trong mùa hè
A. A. Geiger (1965) và Chang (1961)

2.2. Ðặc tính nhiệt trong đất
Các tính chất cơ bản của nhiệt trong đất là: Khả năng hấp thụ nhiệt,
nhiệt dung, tính dẫn nhiệt và khả năng phóng nhiệt
a. Tính hấp thụ nhiệt
Tính hấp thụ nhiệt là khả năng thu nhận nhiệt từ tia nắng mặt trời
của đất, được đặc trưng bằng "suất phản xạ"(Albedo). "Suất phản xạ" A
là tỷ số phần trăm của năng lượng phản xạ từ mặt đất hay cây H
f
so với
tổng số năng lượng ánh sáng chiếu xuống đất H
r

A (%) =
100
H
H
r
f


A là đặc trưng cho chế độ nhiệt trong đất và phụ thuộc vào các yếu
tố (bảng 10.2) sau:
Bảng 10.2 Quan hệ trạng thái mặt đất với suất phản xạ
Ðặc trưng mặt A (%) Ðặc trưng mặt A (%)
Phản xạ

(28%)
H

p ph


(16%) Tia trực
tiếp (19%)

Bức xạ toàn
cầu (45%)
Bức xạ khí
quyển (25%)
Khuy
ế
ch tán

Bức xạ mặt trời
ngoài khí quyển
(100%)

Phản xạ
(16%)


Bức xạ ra
ngoài hữu ích
(17%)
Bố
c hơi
phát tán

Nhiệt
cảm ứng
B

c x


h

u hi

u (67%)

Dòng nhiệt vào đất (0%)

(11%)

100%

(37%)

mây

đất đất
Phủ tuyết trắng*
Ðụn cát sáng*
Ðồng cỏ và hoa
màu*
Rừng*
Mặt nước*
Ðất xám khô**
Ðất xám ướt**
Ðất sét khô**
Ðất sét ướt**
75-95
30-60
12-30
5-20
3-10
25-30
10-12
23
16
Ðất đen khô**
Ðất đen ướt**
Ngô (New
York)
++

Mía (Hawai)
++

Dứa (Hawai)

++

Khoai tây (LB
Nga)
++
14
8
23,5
5-18
5-8
15-25
Nguồn: * Geiger (1965); ** Chudnovskii (1966);
++
Chang (1968)
Suất phản xạ phụ thuộc vào một số yếu tố sau:
 Màu sắc đất. Ðất màu tối thu nhiệt tốt làm giảm giá trị của A. Vì thế
đất giàu mùn phản xạ nhiệt ít, nhận được nhiều nhiệt hơn đất nghèo
mùn.
 Thành phần cơ giới đất. Ðất nặng chứa nhiều sét, khả năng hấp phụ
nước và các vật chất khác cao hơn đất nhẹ. Chứa nhiều nước dẫn đến
suất phản xạ của đất nhỏ.
 Ðộ ẩm đất. Ðất ẩm có suất phản xạ bé hơn đất khô do nước có nhiệt
dung lớn hơn đất.
Ngoài ra, quá trình bốc hơi nước tiêu hao khá nhiều nhiệt. Vì vậy, đất
ẩm vào mùa đông ấm, ngược lại vào mùa hè mát.
 Trạng thái mặt đất. Mặt đất bằng phẳng giá trị A càng lớn.
 Thảm thực vật. Mức độ ngăn cản ánh nắng mặt trời phụ thuộc vào
loại cây và mật độ của cây.
 Hướng dốc cũng ảnh hưởng đáng kể đến suất phản xạ. Dốc theo
hướng Nam sẽ có giá trị của A bé hơn.

 Vĩ độ. Vĩ độ càng cao thì suất phản xạ càng lớn do hai nguyên nhân.
Trước hết là trên đường đến mặt đất xa hơn bức xạ bị hao tổn do các
yếu tố sẽ lớn hơn. Thứ hai, góc tới của bức xạ càng lớn suất phản xạ
càng cao.
b. Nhiệt dung của đất
Nhiệt dung riêng của đất là số calo cần thiết để đốt nóng 1 gam đất
hay 1 cm
3
đất lên 1
0
C. Ðất cấu tạo bao gồm pha rắn, pha lỏng và pha
khí. Trong đó chất khí có nhiệt dung riêng rất thấp (0,000306 calo/g
đất). Vì thế nhiệt dung riêng của đất là do hạt rắn và nước trong đất
quyết định. Nhiệt dung riêng của nước là 1 cal/g (4,18 jun/g), quân bình
của đất khô kiệt là 0,2 cal/g (gần 0,8 jun/g). Các loại đất có nhiệt dung
riêng khác nhau. Ví dụ, theo A.H. Xabanhin nhiệt dung riêng A các đất
đen, xám và đỏ lần lượt là: 0,230; 0,217 và 0,248.
Ðể tính chính xác nhiệt dung riêng của đất ta dùng công thức sau:
C
đất
= X
a
C
a
+X
w
C
w
+



N
J
sisi
CX
1

(1)
Trong đó: X phần thể tích, C là nhiệt dung riêng theo thể tích và a,
w, s
i
chỉ không khí, nước, và loại hạt rắn i trong đất. Và được de Vries
(1963) mô hình hoá như sau:
C
đất
=


00
60,0146,0 XX 

(2)
Trong đó: X
0
là thể tích phần chất hữu cơ;  là độ hổng;  là lượng
nước theo thể tích; - X
0
là phần thể tích của tất cả các loại khoáng vật
c. Tính dẫn nhiệt
Tính dẫn nhiệt là khả năng truyền nhiệt qua các tầng đất hay các

vùng trong đất. Sự di chuyển của nhiệt tương tự như nước trong đất, tỷ
số dòng nhiệt có thể xác định bằng lực truyền (driving force) và bằng sự
thoát với dòng nhiệt qua đất. Tỷ số này được biễu diễn theo định luật
Fourier:
J
Hc
= -
dz
dT
λ
Trong đó: J
Hc
là dòng dẫn nhiệt,  là hằng số sức dẫn nhiệt; T là
nhiệt độ.
 phụ thuộc vào nhiều yếu tố:
 Ðộ ẩm đất. Ðộ ẩm càng cao sức dẫn nhiệt của đất càng lớn do nước
truyền nhiệt cao hơn không khí.
 Ðộ chặt của đất. Ðất chặt, các hạt đất xếp sít vào nhau trong khi các
hạt khoáng dẫn nhiệt tốt hơn nước do đó đất ẩm bị nén chặt dẫn nhiệt
tốt hơn.
 Thành phần và số lượng cấp hạt. Có thể xếp sức dẫn nhiệt theo thứ tự
sau: cát > thịt > sét > than bùn.
Có thể tham khảo sức dẫn nhiệt của một số loại đất có ẩm độ khác
nhau do Geiger (1965) đưa ra trong bảng 10.3.
Bảng 10.3 Sức dẫn nhiệt của các loại đất khác nhau
Ðất

(10
-
3

cal cm
-
1
s
-
1

0
C
-1
)
Ðất

(10
-
3
cal cm
-
1
s
-
1
0
C
-1
)
Cát ướt
Cát khô
Sét ướt
Sét khô

4,00
0,55
3,50
0,17
Ðất thịt
ướt
Ðất thịt
khô
Than bùn
ướt
Than bùn
khô
-
-
0,85
0,20

2.3. Cân bằng nhiệt ở mặt đất
Cân bằng nhiêt ở mặt đất là cân bằng giữa lượng nhiệt đi vào mặt
đất và lượng nhiệt đi ra khỏi mặt đất trong một khoảng thời gian nhất
định.
Nếu ta xem nhiệt đi vào làm thay đổi nhiệt độ mặt đất thì có thể
viết cân bằng năng lượng nhiệt trạng thái ổn định ở mặt đất như sau:
Năng lượng thực đi vào mặt đất = năng lượng thực thoát khỏi
mặt đất
Thành phần của cân bằng năng lượng nhiệt. Tồn tại 3 quá trình
vận chuyển nhiệt chủ yếu khỏi mặt đất. Một, dòng nhiệt đối lưu hay
dòng nhiệt mẫn cảm S biểu hiện không khí ấm đi lên từ vùng bề mặt vào
khí quyển bên trên. Quá trình này trước hết xảy ra do sự đối lưu hỗn
loạn của không khí. Thứ hai, gọi là dòng nhiệt của đất J

H
biểu thị dòng
nhiệt thẳng đứng đi vào đất. Thứ ba, đối lưu nhiệt do bốc hơi phát tán và
hơi nước tiếp tục rời khỏi mặt đất vào khí quyển phía trên và được gọi là
dòng nhiệt "ngầm" H
v.
ET, trong đó ET là bốc hơi phát tán của dòng hơi
nước và H
v
là nhiệt ngầm của quá trình bốc hơi (chuyển thể của nước).
Vận chuyển hơi nước chủ yếu cũng theo con đường đối lưu. Vậy
phương trình cân bằng nhiệt trạng thái ổn định có thể viết:
R
n
= S+ H
v.
ET + J
H

(3)
R
n
là nhiệt bức xạ hữu hiệu
Mỗi thành phần ở phía phải của phương trình là âm khi chúng đi ra
khỏi mặt đất (hình 10.2). Giá trị các thành phần của phương trình trên
thể hiện như sau:

Thành phần bức
xạ
Ðất trống khô


Ðất ướt, cây phủ
kín
S/R
N

H
v
. ET/ R
N

J
H
/ R
N

0,45
 0
0,55
0,30
0,70
 0



Hình 10.2 Sơ đồ biểu diễn thành phần của cân bằng năng lượng bề mặt
(Tanner 1968)
2.4. Sự thay đổi nhiệt độ đất hàng năm
Ngoài đồng ruộng, nhiệt độ thay đổi không ngừng. Trên cơ sở mô
hình của phương trình dòng nhiệt ổn định, phương trình tính nhiệt độ

hàng năm như sau:
T(t) = T
A
+ A sin t
(4)
Trong đó: T
A
nhiệt độ trung bình năm, A là biên độ dao động bề
mặt, = 2 là tần số góc,  là chu kỳ của sóng. Giả thiết khi z (độ sâu)
giảm đến vô cùng, ta có thể biến đổi thành
lim T(z,t) = T
A

(5)
Bức xạ hữu hiệu

B

c hơi

Nhi

t c

m

ng

Nhi


t đ

t

Mặt đất

Ban ngày

Bức xạ hữu hiệu

Nhi

t c

m

ng

Nhiệt đất

Mặt đất

Ban đêm
B

c hơi

z 
Carslaw và Jaeger, 1959 đã mô hình hoá (4) như sau:
T(z,t) = T

A
+
   
dztdz
A
/sin/ 

 < z < 0

(6)
Trong đó: d=

/2
T
K =

/
T
K
Một kết quả ứng dụng phương trình (6) ta thu được trên hình 10.3.



Hình 10.3 Sơ đồ nhiệt độ tại mặt đất và 3 độ sâu theo hàm thời gian
của phương trình (6)
2.5. Ðiều hoà nhiệt trong đất
Ðiều hoà nhiệt trong đất là quá trình nhằm điều chỉnh nguồn nhiệt
và nhiệt độ theo hướng có lợi cho cây trồng, bao gồm một số biện pháp
kỹ thuật, biện pháp cải tạo đất và biện pháp điều hoà khí hậu.
a. Các biện pháp kỹ thuật

Ðây là những biện pháp tương đối đơn giản nhưng rất hiệu quả như
làm đất, chế độ canh tác.
Làm đất: Tuỳ theo từng vùng đất, từng mùa mà điều chỉnh mức độ
cày sâu hay nông khác nhau. Nén đất cũng là biện pháp giữ nhiệt tốt cho
đất vì càng chặt sự truyền nhiệt càng dễ. Nhờ đó mà tầng dưới nhiệt độ
có thể tăng 3-5
0
C. Việc lên luống làm tăng sự gồ ghề cho mặt đất dẫn
đến tăng bức xạ nhiệt.
Nhiệt độ đất (
0
C)
Che phủ đất cũng làm thay đổi khả năng phản xạ và phóng nhiệt
của đất. Che phủ đất bằng nguyên liệu màu đen có thể tăng bức xạ lên
10-15% do đó làm đất ấm lên nhất là vào mùa đông. Ngày nay người ta
dùng PE màu sáng cho phép tia hồng ngoại đi qua, tăng được nhiệt cho
đất.
b. Các biện pháp cải tạo đất
Các biện pháp cải tạo đất có ảnh hưởng lâu dài và cơ bản đến chế
độ nhiệt trong đất. Ta thường sử dụng những biện pháp như tưới tiêu
nước, trồng rừng để thay đổi chế độ nhiệt.
Tưới nước làm giảm suất phản xạ đáng kể, có thể tới 20 % thấp hơn
khi không tưới. Tưới nước cũng làm tăng tính dẫn nhiệt do đó nhiệt độ
trong đất đều nhau giữa các tầng và các vị trí. Ðất được tưới, nước bốc
hơi, từ đó bức xạ nhiệt trong không khí trên sát mặt ruộng tăng làm tăng
nhiệt độ, mạ non không bị chết rét.
Trồng rừng đầu ngọn gió hay đầu bờ ruộng có tác dụng ngăn tốc độ
gió dẫn đến thay đổi tiểu khí hậu cho vùng cây trồng đứng sau.
Bón phân nhất là phân hữu cơ có tác dụng làm thay đổi nhiệt độ vì
chất hữu cơ dẫn nhiệt kém giữ nhiệt lâu, ngoài ra vi sinh vật phân giải

chất hữu cơ giải phóng nhiều năng lượng.
c. Các biện pháp điều hoà khí hậu
Ngoài biện pháp cơ bản là trồng rừng, ngày nay con người có thể
thay đổi thời tiết nhân tạo. Ví dụ làm mưa kể cả mưa đá, làm gió hay phá
tan một cơn mưa Tất cả những kỹ thuật này đều ảnh hưởng tới nhiệt
độ trong đất.


Câu hỏi ôn tập

1. Nêu vai trò của không khí trong đất.
2. Giải thích vì sao có sự khác nhau về thành phần giữa không khí
trong đất và trong khí quyển.
3. Nêu tính thông khí của của đất và mô hình toán tính dòng khí
trong đất.
4. Nêu những biện pháp điều tiết không khí trong đất.
5. Cho biết những đặc tính nhiệt trong đất và những yếu tố chi phối.
6. Nêu phương trình cân bằng nhiệt trạng thái ổn định
7. Trình bày mô hình toán tính nhiệt độ năm của đất
8. Kể các biện pháp điều hoà nhiệt thường được áp dụng













×