Tải bản đầy đủ (.pdf) (16 trang)

Giáo trình kỹ thuật chăn nuôi heo - Chương 3 potx

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (217.73 KB, 16 trang )

Kỹ thuật chăn ni lợn

CHƯƠNG III
QUI TRÌNH CHĂM SÓC NUÔI DƯỢNG HEO
I. NUÔI DƯỢNG CHĂM SÓC HEO HẬU BỊ
Heo hậu bò là những thú dùng để thay thế những con nọc, nái đang sinh sản trong tương lai. Sau khi
tuyển lựa heo hậu bò phải được chăm sóc nuôi dưỡng đúngcách thì mới phát huy hết sức sinh trưởng, sinh
sản trong tương lai.
Heo hậu bò thường được chọn lọc qua ít nhất 4 thời điểm:
1. Lúc 7 ngày tuổi đối với heo đực, vì những con không đạt tiêu chuẩn làm giống sẽ thiến đi ở thời điểm
này, dòch hoàn còn nhỏ, mau lành vết thương. Đối với heo cái thì chọn lúc 21 ngày tuổi. Lúc này nên dựa
vào gia phả, thành tích sinh sản của bố mẹ, ông bà và ngoại hình của heo con. Nên chọn những con bụ
bẫm, tăng trưởng tốt, trội nhất trong đàn, không có những khuyết tật, dò hình, bộ phận sinh dục không bất
bình thường, số vú trên 12, các vú cách nhau đều đặn, heo linh lợi không ủ rũ, bệnh tật.
2. Lúc cai sữa hoặc 60 đến 70 ngày tuổi, giai đoạn này chọn heo để chuyển qua khu làm giống hoặc nuôi
thòt bán cho nông dân nuôi thòt. Thời điểm này cũng căn cứ vào ngoại hình, sự tăng trưởng và sức khoẻ heo
đã chọn.
3. Giai đoạn 4 đến 6 tháng tuổi, thời kỳ này cũng dựa vào sức sinh trưởng, sự phát triển tầm vóc, có thể
cân đo hoặc nếu nuôi cá thể có thể kiểm tiêu tốn thức ăn cho mỗi kg tăng trọng. Các dò tật nếu có sẽ dễ
dàng nhận ra và có thể so sánh xếp cấp phê điểm theo tiêu chuẩn đònh sẵn (theo tiêu chuẩn nhà nước hay
tiêu chuẩn cơ sở). Những con không đạt tiêu chuẩn sẽ chuyển ngay qua khâu nuôi thòt để xuất bán, hoặc
thiến đực nuôi vỗ xuất thòt.
4. Giai đoạn 7 đến 10 tháng tuổi, đây là giai đoạn quyết đònh chọn lọc cuối cùng. Heo phải có sự phát
triển tốt các chiều đo; năng suất sinh trưởng cao; không mập mỡ khung xương vững chắc; không dò tật, bộ
vú đều, núm vú lộ rõ không có vú lép, bộ phận sinh dục đầy đặn, phát triển tốt; lanh lẹ nhưng không nhút
nhát sợ hãi hoặc hung dữ. giai đoạn này cần chú ý đến tính năng (libido) của heo đực: chúng thường hay
chồm nhảy trên lưng nhau thực hiện phản xạ giao phối và có thể xuất tiết chất dòch từ dương vật. Những
đực quá mập, dòch hoàn kém phát triển, hoặc phát triển không đều, yếu chan, nứt hư móng, viêm khớp,
dòch hoàn ẩn… nên loại thải.
Đối với heo cái cần phải có biểu hiện động dục lần đầu. Cường độ động dục lần đầu mạnh hay yếu, lộ
rõ hay âm thầm cho thấy khả năng phát dục của nái trong tương lai. Những nái quá mập, bộ vú xấu, quá


nhút nhát hay quá hung dữ, không biểu lộ động dục đến 10 tháng tuổi thì nên loại thải.
Heo hậu bò cho ăn các loại thức ăn số 6, 7, 8, 9, phải dành thực liệu tốt để pha trộn, cho ăn đúng lượng,
không quá dư mà không quá thiếu. Từ 5 đến 6 táhng tuổi có thể phải hạn chế đònh lượng thức ăn để tránh
hiện tượng mập mỡ kém khả năng sinh sản. Nếu nghi ngờ thức ăn kém phẩm chất cần thay đổi ngay, có thể
bổ túc sinh tố A, D, E, để hỗ trợ sự sinh trưởng phát dục. Trong một số trại có thể bố trí sân cỏ hay sân cát
cho heo hậu bò vận động để phát triển khung xương, cơ, chân móng khoẻ mạnh, chống tích luỹ mỡ.
Kỹ thuật chăn ni lợn

Chuồng trại phải thoáng mát, có độ dốc thoát nước dễ dàng, có độ nhám vừa đủ, không trơn trợt hay gồ
ghề làm hư móng. Phải có biện pháp chống lạnh, chống nóng, chống gió lùa, mưa tạt. Không nuôi nhốt quá
chật hẹp, nếu nuôi chung cần chú ý đến sự tương đương tầm vóc, không nhốt nuôi chung nhiều con có
nhiều tầm vóc thể trọng khác xa nhau.
Những con hậu bò không đạt tiêu chuẩn làm giống phải nhanh chóng loại, nuôi hay bán thòt ngay và
tuyển chọn heo khác nuôi thay thế, không nên nuôi kéo dài tốn kém.
II. NUÔI DƯỢNG CHĂM SÓC VÀ KHAI THÁC HEO ĐỰC GIỐNG
Heo đực lúc 8-10 tháng tuổi thường được huấn luyện cho phối giống trực tiếp hay nhảy giá lấy tinh. Heo
đực thành thục cả hai cách giao phối sẽ tăng hiệu suất sử dụng, nhất là đực trưởng thành quá lớn vóc so với
heo nái. Phương pháp huấn luyện thông thường là con đực tơ tham quan con đực thành thục phối giống trực
tiếp hay nhảy giá. Khi cho đực tơ phối giống phải chú ý ghép phối với những nái có tương đương tầm vóc,
đang ở giai đoạn mê ì, nái hiền không hung dữ cắn đực, làm đực hoảng sợ. Tránh cho đực thấp phối với nái
cao chân hoặc đực cao phối với nái thấp…
Sau khi phối giống trực tiếp thành thục có thể tiến hành tập cho đực nhảy giá lấy tinh (phải dùng dòch
tiết âm hộ nái động dục bôi lên giá nhảy). Đực biết nhảy giá giúp người nuôi dễ kiểm soát tinh dòch.
Chuống nuôi đực giống phải rộng rãi thoáng mát, không bò gió lùa mưa tạt, không trơn trợt hay quá
nhám, gồ ghề dễ hư móng, té ngã què chân. Nên có sân vận động (sân cỏ hay cát) để heo tự do ủi gặm,
trầm mình, giản cơ… Đặc biệt phải nhốt mỗi con một ô, tường ngăn cao và cửa không vào đối diện để tránh
đực nhìn thấy nhau gây kích động, hung hãn và dễ mất sức. Khu nuôi đực phải gần khu nái tơ chờ phối hoặc
nái sữa chờ phối để mùi đực kích thích nái động dục và mùi nái động dục kích thích đực tăng tính hăng.
Thức ăn cho đực sinh sản là thức ăn hỗn hợp số 10A với đònh mức ăn là 2,5kg/con/ngày, phẩm chất thực
liệu phải tốt không hư mốc đóng vón, mọt, kiến, sâu,… Nếu có thức ăn xanh càng tốt để tránh táo bón. Có

thể cung cấp thêm sinh tố A, D, E khi cần thiết.
Nên tắm mát đực giống thường xuyên, nên xòt mát bộ phận sinh dục, tránh để khí hậu hầm nóng làm xệ
túi da dòch hoàn (scrotum). Nhiệt độ quá nóng hoặc quá lạnh làm giảm sự sinh tinh dòch của dòch hoàn.
Heo đực giống dưới một năm tuổi mỗi tuần phối một nái.
Từ 1 đến 2 năm tuổi mỗi tuần phối 2 nái.
Từ 2 đến 3 năm tuổi mỗi tuần phối 3 nái, hay phối cách nhật: ngày phối ngày nghỉ.
Trong trường hợp phối lặp nhiều lần liên tiếp phải cho nghỉ bù để tránh tình trạng tinh dòch có ít tinh
trùng. Sau khi phối phải bồi dưỡng đực:
- Hoặc hai quả trứng chính (trứng sống lòng trắng có chất avidin ức chế vitamin H ảnh hưởng đến tình
trạng thiếu biotin trên đực)
- Hoặc 100g bột cá tốt
- Hoặc 50g sữa không kem
Kỹ thuật chăn ni lợn

Nên làm vệ sinh chuồng nái sạch sẽ, tắm mát đực, vệ sinh bao đầu dương vật đực và đưa đực sang
chuồng nái để phối giống. Nên phối giống cho nái vào lúc 8 giờ hoặc chiều mát (4-5 giờ), không cho phối
lúc trưa nóng, đực giống không hăng sức phủ nái. Cho phối trong khu nái tơ, chờ phối sẽ kích thích những
con nái chung chuồng nhanh chóng động dục và cóo thể động dục đồng loạt.
Hằng ngày nên luân phiên cho heo đực đi quầng nái khô sữa tạo điều kiện cho đực vận động vừa tạo
kích thích sự lên giống của đàn heo nái.
Nên đònh kỳ kiểm tra phẩm chất của tinh dòch:
- Thể tích (volume) trung bình heo ngoại mỗi lần xuất tinh từ 200-300ml
- Hoạt lực (A: Activity) số tinh trùng tiến thẳng phải trên 75%
- Nồng độ (C: concentration) số tinh trùng trong mỗi cm
3
(ml) là 100.000.000 đến 300.000.000
Nên kiểm tra màu tinh: đục trắng như sữa cho thấy chứa nhiều tinh trùng, trắng trong cho biết ít tinh
trùng. Tinh có màu bất thường như vàng, nâu, có máu… thì phải ngưng cho giao phối với nái, nhốt riêng
theo dõi.
Kiểm tra sự phát triển của dòch hoàn trong suốt thời kỳ sử dụng đực, nếu như dòch hoàn không đều nhau,

hoặc một trong hai phát triển to quá, hoặc teo nhỏ lại phải nuôi riêng theo dõi.
Heo đực hung hăng, hay nhút nhát trong khi đưa đi phối giống cần lưu ý huấn luyện lại hoặc loại thải.
Những đực già có răng ranh dài bén nhọn cần chú ý không làm chúng hung hăng tấn công người chăm sóc
hoặc nái khi đi phối.
Mùa nóng cần tắm mát cho nọc, nhất là phải làm mát dòch hoàn sao cho da bao dòch hoàn không xệ sau
khi phối giống, sự hầm nóng có thể làm giảm tính hăng của nọc. Sau khi phối nái, để tái tạo tinh trùng,
mạch máu đến dòch hoàn thường cương mạch, cường độ trao đổi chất ở các mô bào dòch hoàn khẩn trương
hơn, do đó nhiệt độ ở dòch hoàn sẽ tăng và nhu cầu làm mát là một biện pháp tích cực để hỗ trợ hoạt động
sinh tinh.
Thời gian sử dụng nọc thường khoảng 3-4 năm tuỳ theo giống và cá thể. Nọc già thường chậm chạp
nặng nề khó phối trực tiếp, cần phải lấy tinh gieo cho nái để tránh tình trạng ít sử dụng, tinh kém phẩm
chất, thú mau mập không hăng sức.
Nếu có điều kiện nên đònh kỳ xét nghiệm huyết thanh chẩn đoán các bệnh nguy hiểm như Brucellosis,
leptospirosis, aujesky, dòch tả tiềm ẩn…
Khi đực già, sự tuần hoàn huyết ở da kém thường có thể phát sinh những bệnh da như nhiễm nấm, cái
ghẻ, eczema, nụt cóc trên da dòch hoàn, rụng lông… làm cho ngoại hình thú xấu xí đi, không hấp dẫn khách
hàng tham quan chọn giống để mua.
Đực giống loại thải có thể giết thòt ngay không cần thiến để nuôi vỗ béo, vả lại việc vỗ béo thường tốn
kém và ít hiệu quả.
Kỹ thuật chăn ni lợn

III. DẤU HIỆU NÁI ĐÔNG DỤC VÀ THỜI ĐIỂM PHỐI GIỐNG
Khi được 5-6 tháng tuổi heo cái bắt đầu động dục, giống heo nội thường có thể động dục sớm hơn. Lần
động dục đầu tiên thường có thể không rõ trên một số cá vật, nhưng nói chung có ít trứng rụng, do đó người
nuôi chỉ ghi nhận để dễ phát hiện chu kỳ động dục sắp tới. Quãng cách giữa hai lần động dục là 21 ngày,
và khi có biểu hiện động dục kéo dài từ 36 đến 72 giờ.
Khi động dục nái thường bỏ ăn, hay đi lại ngẩn ngơ trong chuồng, hay gặm máng phá chuồng và chồm
nhảy lên lưng những con khác. Những con bò chồm lên lưng thường bỏ chạy (nếu không động dục) hoặc có
thể đứng yên (đang động dục ở giai đoạn mê ì) con bò chồm lên lưng thường hay kêu rền (nếu không động
dục) và không kêu rền (khi đã ở giai đoạn mê ì) nhưng con nhảy lên lưng con khác thường không kêu rền

mà còn có phản xạ giao phối giống như con đực, chỉ khi thấy có mùi đực hoặc đực giống đi ngang mới thật
sự kêu rền.
Nái tơ động dục thì âm hộ thường sưng to, đỏ, và có nước nhờn trong, nái rạ khi động dục âm hộ có thể
không sưng, chỉ ửng hồng, và cũng có nước nhờn trong. Đây là giai đoạn đầu của thời kỳ động dục, giai
đoạn này heo nái thường không chòu cho đực phối và nếu có phối ép hoặc gieo tinh nhân tạo thì sẽ không
hiệu quả, hoặc sinh ít con.
Giai đoạn thứ hai của thời kỳ động dục là giai đoạn quan trọng, âm hộ của nái bớt sưng (gọi là hoa héo)
nhăn nheo, tím tái và có nước nhờn đục, dính, khi tay lên lưng hay mông, nái đứng yên, vểnh tai, vểnh đuôi
chờ đực phối. Đây là giai đoạn mê ì (mê đực) cho đực phối giống hoặc gieo tinh là thích hợp.
Sau giai đoạn mê ì là giai đoạn 3, nái cũng còn những biểu hiện động dục nhưng cường độ yếu và có thể
không cho đực phối giống, nếu phối giống trễ vào giai đoạn này thì nái sinh ít con hoặc không hiệu quả.
Khi cho phối giống cần xác đònh đúng thời điểm mê ì, phải vệ sinh bộ phận sinh dục nái kỹ, vệ sinh
chuồng trại tránh trơn trợt, tránh gồ ghề…để nọc nái phối giống với nhau. Nên phối giống vào sáng (khoảng
8-9 giờ) hoặc chiều mát (khoảng 16-17 giờ). Nhiều trường hợp cần cho nọc phối kép, hai lần phối cách
nhau 24 giờ. Cũng có nái rụng trứng không tập trung kéo dài, nái đòi đực phối liên tiếp 2-4 lần, mỗi lần
cách nhau 24 giờ thì mới sinh nhiều con, nếu chỉ phối 1-2 lần thì sinh ít con.
IV. NUÔI DƯỢNG CHĂM SÓC NÁI MANG THAI
Sai khi phối giống 21 ngày không thấy nái động dục trở lại xem như đã mang thai. Có thể dùng thiết bò
siêu âm để chẩn đoán nái mang thai nhưng tốn công và chi phí mua máy. Thới gian mang thai kéo dài từ
114-115 ngày (3 tháng, 3 tuần, 3 ngày). Nếu nái mang thai nhiều con có khả năng sinh từ ngày 113, nếu ít
con có thể sinh từ ngày 115 đến 118. Nhưng nếu nái sinh sớm từ ngày 108 trở lại thường rất khó nuôi con,
dù cho có sữa nhưng con rất yếu ớt, sức bú mẹ kém, sức đề kháng kém nên tỷ lệ nuôi sống rất thấp. Trong
thời kỳ mang thai có thể chia ra làm hai giai đoạn:
1. Giai đoạn chửa kỳ 1: 1-84 ngày mang thai
Thời kỳ này phôi và thai còn nhỏ, sử dụng ít chất trong máu của mẹ, dưỡng chất còn lại nái dùng để dự
trữ tạo sữa sau này. Thiếu dưỡng chất trong thức ăn heo nái giai đoạn này có ảnh hưởng xấu đến sự phát
Kỹ thuật chăn ni lợn

triển của phôi thai như tăng hiện tượng tiêu phôi, nái còn ít thai sống khi đẻ mà chứa nhiều thai khô (thai
gỗ). Thừa dưỡng chất cũng gây ảnh hưởng tiêu phôi và làm nái trở nên mập mỡ. Nái khi cai sữa quá gầy

ốm lại không dự trữ đủ dưỡng chất trong giai đoạn này sẽ bò thiếu sữa khi cho con bú trong lứa đẻ kế tiếp.
Vì vậy phải đònh lượng thức ăn cho nái ở giai đoạn này hết sức chặt chẽ. Cụ thể:
Theo hướng dẫn trên brochure
Vai trò của bầu tiểu khí hậu cũng rất quan trọng, nái cần được yên tónh, nhiệt độ ẩm độ chuồng nuôi
thích hợp với điều kiện Việt Nam độ ẩm trung bình 75-80% là đạt yêu cầu . Nhiệt độ quá nóng làm nái tiêu
thụ ít thức ăn có ảnh hûng xấu đến thai và thai sống. Chuồng phải khô ráo, có độ nhám thích hợp, không
trơn trợt dễ gây té ngã. Nên nuôi nái trong chuồng có ngăn đònh lượng, nếu nuôi chung thì không nhốt
nhiều con chật chội, khác tầm vóc, sự tranh ăn dễ xảy ra tình trạng đánh cắn nhau và phân hoá thành những
con quá mập hoặc quá gầy. Thức ăn phải cân bằng dưỡng chất, tránh dư năng lượng, chất béo, thiếu xơ gây
táo bón.
2. Giai đoạn chửa kỳ 2 85 ngày mang thai đến lúc sinh
Thời kỳ này thai đã lớn sử dụng nhiều dưỡng chất trong máu của mẹ để phát triển, do đó thiếu dưỡng
chất trong thức ăn của nái sẽ làm heo con sơ sinh nhỏ vóc, khó nuôi, tỷ lệ hao hụt cao. Nhưng nếu quá dư
thừa dưỡng chất bào thai sẽ tăng trọng nhiều, trở nên lớn vóc làm cho nái đẻ khó, đẻ không ra, phải can
thiệp kéo thai, móc thai gây tổn thương bộ phận sinh dục làm nái viêm nhiễm, mất sữa, hoặc bò nghẽn tắc
ống sinh dục (cổ tử cung, ống dẫn trứng) trở nên vô sinh. Vì vậy ở thời kỳ này cũng cần phân nhóm nái
theo thể vóc để cung cấp mức ăn thích hợp:
- Theo hướng dẫn trên brochure
giai đoạn này nếu quan sát vùng hông có thể đoán biết nái mang ít hay nhiều thai để có mức ăn phù
hợp.
Sự phát triển bệ sữa ở cuối giai đoạn cũng dự báo khả năng tiết sữa của nái để có chế độ nuôi dưỡng nái
thích hợp tránh tình trạng nái dư sữa sau đẻ hoặc kém sữa.
Khác với thời kỳ 1, thời kỳ này nái cần cho vận động (nếu có điều kiện) để có hệ cơ tốt, chân khoẻ,
khung xương chậu nở rộng (đối với nái sắp đẻ lứa đầu), nên cho nái ra sân cỏ hay sân cát vận động tuỳ
thích, tiếp xúc với môi trường tự nhiên, để tăng sức đề kháng bệnh và cũng nhờ đó gia tăng hàm lượng
kháng thể chống bệnh cho heo con trong sữa đầu.
thời kỳ này, tầm vóc nái nặng nề chuồng trại phải khô nhám tránh trơn trợt, bầu tiểu khí hậu phải
thích hợp: thoáng mát tránh gió lùa mưa tạt, tránh lùa dời chuồng đi xa, tránh nhốt chung nhiều nái chật
chội. Nếu có điều kiện nên nuôi riêng từng con trước ngày đẻ 15-20 ngày để dễ đònh mức thức ăn, dễ theo
dõi tình trạng sức khoẻ, dễ vệ sinh kỹ bộ vú và bộ sinh dục, vệ sinh kỹ chuồng đẻ, chăm sóc vết thương hay

bọc mủ trên mình nái, dễ theo dõi tình trạng táo bón của nái.
Nói chung, trong thời gian mang thai tránh để nái dư thừa dưỡng chất, trở nên quá mập, nái mập thường
lười rặn, đẻ chậm, dễ gây tình trạng ngộp thai, chết thai khi hạ thai, và sau khi đẻ dễ mắc hội chứng M.M.A
Kỹ thuật chăn ni lợn

(metritis, mastitis, agalactia: viêm tử cung, viêm vú, mất sữa). Nái mập chòu nóng kém dễ bò say nóng, say
nắng gây chết, xoay trở chậm, vụng về dễ đè chết con.
Tuy nhiên nếu nái mang thai quá gầy, lại sinh nhiều thai thì bào thai nhỏ vóc, sức sống không cao sau
khi đẻ ra, và nái kém sữa thiếu sữa cho con bú. Nái gầy nuôi nhiều con thì èo uột, dễ mắc nhiều bệnh, bản
thân nái cũng dễ bò bại, yếu chân, chậm lên giống lại sau cai sữa.
V. DẤU HIỆU NÁI SẮP SINH
Nái sắp sinh thường ăn ít hay không ăn, thường có tiếng kêu rền của nái sắp đẻ, nái thường ủi phá nền
chuồng gọi là hiện tượng quần ổ. Đó là tập quán khi chưa gia hoá, heo ủi nền đất cắn cỏ để tạo một tổ ấm
khi đẻ. Do đó, để nái ít hao tốn năng lượng do việc quần ổ, ta nên trải rơm, cỏ khô vào chuồng cho nái
nằm.
Nái sắp sinh thường có thể tăng thân nhiệt, tăng nhòp thở, thường đi lại không yên trong chuồng hay đi
phân, đi tiểu nhiều lần (gọi là đi mót) làm cho chuồng trại dơ bẩn, cần vệ sinh sạch sẽ khô ráo chuồng để
tránh nhiễm trùng cho heo con và bộ phận sinh dục nái sau khi đẻ.
Nái sắp đẻ phải có bộ vú phát triển rõ rệt so với khi chưa mang thai: các núm vú dài ra, quầng núm
rộng, nếu heo sắc lông trắng thường có quầng núm vú và núm vú màu đỏ hồng, hai hàng vú tạo thành hai
bệ sữa chạy dọc vùng bụng, có rãnh phân chia riêng biệt hai hàng vú và các vú. Điều này không thấy được
khi nái chưa mang thai, do vậy nếu sau khi phối không phát hiện nái động dục trở lại, mà sau 3 tháng không
có hiện tượng phát triển bộ vú như trên xem như nái bò nâng không sinh sản được.
Khi nặn khám đầu vú chưa thấy có sữa non thì chắc chắn nái chưa đẻ trong 4-6 giờ sắp tới. Nếu bắt đầu
có sữa non ròn ra đầu vú qua hai lỗ tia sữa thì trong vòng 6 giờ nái sẽ hạ thai. Nếu nặn khám đầu vú thấy
các vú đều có sữa non vọt thành tia dài thì trong vòng 2 giờ sẽ hạ thai. Nếu thấy bộ phận sinh dục có nước
nhờn màu hồng và có lợn cợn những hạt như hạt đu đủ (đó là cứt su heo con bài tiết ra) thì trong nửa giờ
sau sẽ hạ thai. Nếu thấy nái nằm nghiêng một bên, hơi thở đứt quãng, ép bụng, ép đùi quẩy đuôi rặn đẻ thì
chỉ vài mươi giây sau nái sẽ hạ thai.
VI. CHĂM SÓC NÁI ĐẺ VÀ HEO CON SƠ SINH

Nơi nái đẻ phải có bầu tiểu khí thích hợp, thoáng mát, yên tónh. Nhiệt độ cao hầm nóng không thông
thóang làm cho nái thở mệt, lười rặn, đẻ chậm gây ngộp nhiều heo con. Sự ồn ào, lạ người chăm sóc, sự
hiện diện của thú lạ như chó mèo có thể làm nái hoảng sợ hoặc hung dữ có phản ứng tự vệ, ngưng đẻ hoặc
đẻ chậm, số heo con tử vong lúc đẻ tăng cao.
Thông thường mỗi 15-20 phút nái hạ một thai con, cũng có khi nái hạ liên tiếp nhiều con rồi ngưng nghỉ
một thời gian. Nếu hạ thai bình thường thì trong vòng 3-4 giờ nái đẻ hết số con và nhau được tống ra sau
cùng. Những nái tống nhau ra hàng loạt sau chót thường ít bò viêm nhiễm đường sinh dục vì lá nhau như là
chất “lau rửa” tống khứ chất dòch hậu sản ra khỏi ống sinh dục. Trái lại những nái có thai chết trước khi
sinh, tầm vóc lớn, còn nằm trong bọc nhau, thì nái ít rặn chậm đẻ những thai này và có nảh hưởng xấu đến
những thai còn sống bên trong (tăng tỷ lệ heo con ngộp, chết trong lúc sinh: chết tươi). Cần cảnh giác các
Kỹ thuật chăn ni lợn

trường hợp heo nái đang hạ thai nhanh bỗng nhiên ngưng đẻ, cường độ rặn yếu để có biện pháp can thiệp
kòp thời tống những thai chết trước khi sinh, cứu sống những thai sống trong bụng nái. Cũng có trường hợp
sau khi tống hết số nhau (bằng số con đẻ ra), vẫn còn kẹt một con cuối cùng, con này thường to và cũng do
nái mệt, ngủ nên không rặn đẻ kòp thời. Kẹt con như vậy thường gây chết sau vài giờ, thai và nhau bò sình
thối gây viêm nhiễm trùng nặng cho nái, sốt cao, bỏ ăn, mất sữa… chết nhiều heo con vì đói.
Không nên can thiệp bằng Oxytocin khi chưa hạ thai đầu tiên, nếu cần thiết nên khám vùng lỗ xương
chậu thì không nên thọc tay sâu vào bên trong vì không cần thiết và dễ nhiễm trùng tử cung, cổ tử cung, đó
là chưa kể những lần thọc sâu nhiều lần làm rối loạn nhu động đẩy heo con ra ngoài của bộ phận sinh dục
nái, làm đau nái, nái ngưng đẻ một thời gian sau đó.
Nhiều trường hợp nái đẻ heo còn nằm trong bọc nhau, cần nhanh chóng xé bọc để heo thở không bò chết
ngộp. Sau khi nái đẻ hết con, nhau sẽ tống ra (số lá nhau bằng số con), khi nái cho con bú nếu đuôi buông
thõng thì xem như không còn sót con sót nhau. Nhưng nếu như cho con bú, nái vẫn còn cong đuôi (đuôi
quấn một vòng cong) và nếu quan sát kỹ có thể thỉnh thoảng nái nín thở, ép bụng, thì xem như vẫn còn kẹt
con hay kẹt nhau chưa tống ra. Dấu hiệu cong đuôi thường báo hiệu rất chính xác tình trạng sót con hay sót
nhau. Riêng ở nái sự sót con xảy ra nhiều hơn sót nhau so với những thú khác.
Trong khi đẻ, nhiều nái thường đứng dậy, đi uống nước, hoặc đi phân, đi tiểu và trở bề nằm để tiếp tục
hạ thai, có lẽ do thai nằm trong hai sừng tử cung phân bố hai bên bụng, và việc trở bề nằm là cách thức để
hạ thai theo tập quán tự nhiên. Do vậy thấy nái đẻ một số con rồi nghỉ, thì nên đỡ cho đứng dậy đi một

vòng và tác động các vú đối diện để cho nái trở bề nằm (nếu muốn nái nằm bên phải thì xoa nắn bệ vú,
hàng vú bên trái và ngược lại).
Trước khi nái đẻ cần làm vệ sinh sạch sẽ vùng hội âm (quãng giữa âm hộ với hậu môn) vùng này thường
chứa nhiều lớp nhăn da chất bẩn hoặc phân dính, chúng dễ vấy nhiễm vào âm đạo khi can thiệp móc thai.
Nên cắt sạch lông đuôi để tránh tình trạng nái quẩy đuôi khi rặn đẻ làm văng, phát tán dòch nhầy (sản
dòch), hoặc dòch hậu sản, hoặc mủ (khi bò viêm đường sinh dục). Việc cắt lông đuôi cũng có lợi cho chủ
nuôi trong việc đoán biết quảng cách giữa hai lứa đẻ của nái (lông đuôi ra dài thì quảng cách giữa hai lứa
đẻ dài và ngược lại). Một số trại, chủ trương cắt đuôi heo nái nhưng như vậy thì mất đi dấu hiệu báo tình
trạng sót con sau khi đẻ.
Nái bò hầm nóng thở mệt ít rặn đẻ thì nên chống nóng cho nái bằng cách lau mát nhiều lần, chườm lạnh
vùng đầu, hoặc điều chỉnh bầu tiểu khí hậu nếu có điều kiện, nhờ đó có thể giúp nái hạ thai nhanh ít tử
vong cho bào thai.
Một số nái khi sắp đẻ thường bò sưng phù âm môn rất nặng và nếu nái rặn đẻ quá mạnh hoặc dùng thuốc
kích thích rặn đẻ, có thể gây vỡ âm môn, xuất huyết, cần có biện pháp cầm máu kòp thời (dùng kẹp mạch
máu và chỉ cột mạch máu), tránh tử vong cho nái.
Sau khi rời khỏi bụng mẹ, heo co sơ sinh cần được xách dốc ngược đầu cho nước nhờn trong xoang
miệng và mũi chảy ra ngoài, không chảy ngược vào khí quản gây sốc. Việc xách dốc ngược cũng giúp máu
dồn về não trên những con bò ngộp nhờ đó não không bò tê liệt. Nên nắm chặt cuống rún tránh xuất huyết
sau khi đứt rời với cuống nhau còn nằm trong bộ phận sinh dục heo nái. Nên quan sát kỹ để phát hiện tình
Kỹ thuật chăn ni lợn

trạng heo con bò ngộp: da tím tái, giãn cơ, heo mềm nhũn không cử động. Gặp trường hợp này phải nhanh
chóng dùng khăn sạch lau móc nhớt trong xoang miệng, mở rộng miệng và dùng tay bóp lồng ngực 60
lần/phút để tạo thông khí phổi. Có thể phải tác động như thế trong vòng 15-20 phút kết hợp với việc lau,
mở rộng miệng mỗi 2-3 phút/lần thì heo có thể phục hồi, cử động vặn mình, kêu… Nếu heo bò ngộp lâu thì
khó hồi phục, nên dành thời gian để chăm sóc những con kế tiếp.
Khi thấy heo con bắt đầu cử động, tiến hành lau sạch chất nhầy toàn thân, cột rốn các thành bụng 4cm
và cắt rốn cách chỗ cột 1cm. Chỉ cột rốn và kéo cắt rốn phải được sát trùng cẩn thận. Sau khi cắt rốn phải
kiểm tra xem có xuất huyết vì cột rốn không chặt hay không và nhúng toàn bộ rốn vào dung dòch cồn iốt
5% để sát rùng cẩn thận. Nên cắt bỏ 8 răng để tránh heo con cắn đau vú mẹ.

Nên úm heo con sơ sinh nếu nhiệt độ bên ngoài lạnh để tránh tình trạng heo con hao hụt nhiều năng
lượng chống lạnh, nhiệt độ úm chừng 30-33
o
C. Khi quan sát thấy heo con trong ổ úm bắt đầu đói ủi nhau
tìm bú thì nên cho bú ngay, không nên giữ chúng lâu trong ổ úm, chúng có thể bú rốn lẫn nhau gây nhiễm
trùng rốn hoặc tuột chỉ cột rốn xuất huyết nguy hiểm cho con bú rốn và con bò bú rốn.
Nên làm vệ sinh kỹ các vú, mỗi vú thường có hai lỗ tia sữa, các lỗ này thường ứ đọng các chất bã hoặc
phân chứa nhiều mầm bệnh, cần cạy bỏ và nặn bỏ vài tai sữa đầu, lau sạch vú bằng thuốc sát trùng nhẹ
trước khi cho heo con bú.
Cho heo con bú sớm cũng kích thích nái đẻ tiếp những con còn trong bụng vì kích thích của heo con ở
đầu vú sẽ dẫn truyền về não, não thuỳ sẽ tiết ra hormon Prolactin (tạo sữa) và Oxytocin (để xuống sữa, thải
sữa)… Chính Oxytocin khi đến thành tử cung sẽ kích thích co bóp đẩy các bào thai còn lại ra ngoài. Nên lót
rơm cỏ sạch, hoặc bao bố cho heo con nằm bú tránh lạnh bụng và trầy xước cuống rốn, cổ chân trước.
Nên làm vệ sinh chuồng trại kỹ lưỡng sau khi nái đẻ xong, cần giữ ấm cho heo con (cho bú xong nên
nhốt vào ổ úm) ít nhất là 3-7 ngày, nên cho bú từng cữ cách nhau mỗi 1g30 đến 2giờ và tránh tình trạng nái
bò mệt hay đè đạp con. Riêng đối với nái cũng cần giữ cho thoáng mát, tránh nóng tránh lạnh, tránh gió lùa
mưa tạt.
Phải cho đủ tất cả heo con bú được sữa đầu (colostrum) vì sữa đầu chỉ sản xuất trong khoảng 24 giờ sau
khi nái hạ thai và heo con cũng chỉ có khả năng hấp thụ sữa đầu tốt nhất trong 24 giờ đầu. Sữa non (hay sữa
đầu) thường đậm đặc hơn sữa thường, có chứa nhiều sinh tố A, nhiều protein mà đặc biệt là gamma
globulin (kháng thể) của nái mẹ để truyền cho heo con, giúp heo con kháng bệnh trong thời kỳ bú mẹ,
trong khi khả năng sản xuất kháng thể chống bệnh của heo con còn yếu chưa hoàn thiện. Vì vậy trong 24
giờ đầu ngoài việc cho heo con bú được sữa đầu, cần hạn chế tối đa sự nhiễm trùng cho heo con, đây là giai
đoạn tranh đua giữa sự hấp thu kháng thể để chống bệnh với sự nhiễm trùng. Nếu sự hấp thu kháng thể
nhanh mà sự xâm nhiễm mầm bệnh chậm thì heo con có sức đề kháng bệnh. Nhưng nếu ngược lại sự nhiễm
khuẩn diễn ra nhanh chóng hơn sự hấp thu kháng thể thì sức khoẻ của heo con bò đe doạ, chúng có thể chết
hàng loạt vì nhiễm trùng trong tuần lễ đầu.
Những vú ngực của nái thường có khả năng tiết sữa tốt, nhưng vú áp chót thường có sữa lúc đầu rồi sau
đó ngưng tiết sữa, vú chót thường cũng sản xuất nhiều sữa và dễ bò viêm, nhất là sau khi cai sữa. Do đó,
Kỹ thuật chăn ni lợn


những con nhỏ vóc khi bú vú nhiều sữa, tuy có lợi là mau lớn, nhưng sức tiêu thụ sữa không nhiều, dễ gây
tình trạng dư sữa, sữa ứ đọng gây viêm, hư mất vú trong các lứa đẻ về sau.
Cho heo con bú từng cữ cũng có lợi là đánh thức chúng để bú vú nái, tránh tình trạng nái nhiều sữa heo
con bú no ngủ nhiều, quãng cách giữa hai lần bú xa nhau, heo con không bú hết sữa mỗi lần nái xuống sữa,
gây ứ đọng lâu, dễ nhiễm trùng vú, gây viêm, sữa ứ cũng tích chứa vi sinh vật lên men làm rối loạn tiêu
hoá heo con. Vì vậy nếu những nái có khả năng tiết sữa nhiều thì khoảng cách giữa hai cữ bú chừng 1 giờ
là tốt, không nên quá lâu. Heo con bú nhiều cữ trong những ngày đầu cũng kích thích nái tiết nhiều
oxytocin để co bóp tử cung, sừng tử cung tống các sản dòch ra ngoài nhanh chóng, tránh ứ đọng những chất
dòch dễ gây nhiễm trùng, nhất là nhiễm trùng vòi trứng, cổ tử cung.
VII. CHĂM SÓC NUÔI DƯỢNG NÁI SAU KHI ĐẺ VÀ NÁI SỮA
Sau khi đẻ, nái thường mệt, ăn ít hay không ăn, nếu có điều kiện nên có nái uống nước cháo tinh bột
gạo, bắp, hay cám để tăng lượng glucid bù đắp cho cơ thể bò mất sau khi đẻ và cũng nhờ đó tránh xảy ra
trường hợp thiếu glucose trong máu gây sốt sữa (milk fever). Cũng trong mục đích chống sốt sữa, có thể
cấp thêm gloconat de calcium. Phải đònh lượng thức ăn hàng ngày theo sự tiết sữa của nái và sức bú của
heo con, nên tăng lượng thức ăn dần dần để tránh tình trạng nái dư sữa. Thức ăn cho nái trong thờii kỳ nuôi
con là số 10B với mức ăn trung bình 4,5kg/con mỗi ngày. Tuy nhiên phải quan sát kỹ biến đổi thể vóc của
nái để cung cấp đònh mức thức ăn: nái mâp nên hạn chế thức ăn nếu nuôi con ít, nái gầy nuôi nhiều con nên
cho ăn tự do theo nhu cầu vì sự cân bằng dưỡng chất trong thức ăn hàng ngày không đủ bù lại với nhu cầu
tiết sữa nuôi con; kéo dài tình trạng cân bằng âm như vậy dẫn đến tình trạng nái bò bại, suy kiệt khi cai sữa,
chậm động dục lại lần kế.
Sau khi đẻ cần theo dõi nhiệt độ cơ thể nái, thông thường thân nhiệt nái khoảng 39oC, nếu thân nhiệt
lên trên 40
o
C là tình trạng báo động có viêm nhiễm trùng sau đẻ, phải có biện pháp điều trò thích hợp và
kòp thời (hội chứng MMA). Cần phân biệt hội chứng MMA với sốt sữa (milk fever) để chữa trò đúng cách.
Phải theo dõi tình trạng dòch hậu sản bài xuất ở bộ sinh dục nái sau đẻ: thông thường nái đẻ tốt dòch hậu
sản ít, trong hoặc hơi hồng, nhưng nếu chất dòch hậu sản quá nhiều, màu trắng đục, hoặc vàng, hoặc xanh
nhạt, hoặc đỏ hồng, lợn cợn như mủ, hôi thối… xem như có sự nhiễm trùng nặng trong bộ sinh dục nái, cần
có biện pháp can thiệp. Trong những trường hợp như vậy nhiều nhà chăn nuôi chủ trương điều trò bằng cách

tiêm kháng sinh kết hợp với bơm thụt rửa bằng thuốc tím hay chất sát trùng. Các biện pháp này có thể giúp
điều trò khỏi sự viêm nhiễm nhưng thường có thể gây di chứng tắt vòi trứng, viêm tắt cổ tử cung không thể
thụ tinh trong các lần động dục kế tiếp. Biện pháp tốt hơn là sử dụng oxytocin tiêm, kích thích co bóp tử
cung tống dòch hậu sản vừa kích thích tiết sữa, sau đó 1-2 giờ lại bơm dung dòch kháng sinh thích hợp vào
bộ sinh dục nái, hai biện pháp luân phiên này đem lại hiệu quả hơn thụt rửa tử cung âm đạo.
Phải quan sát sự xuống sữa của nái mỗi khi gọi con cho bú qua tiếng òt sữa. Thông thường khi nái sắp
cho con bú, nó trở mình nằm nghiêng, gọi con bằng tiếng ít òt rời rạc, nghe tiếng òt, heo con dù đang ngủ
cũng đều thức dậy đến bên vú mẹ ủi cắn nhẹ trên núm vú, quầng núm vú, khi tất cả các con đều tập trung
cùng một động tác ủi gặm vú, tiếng òt sữa của nái từ rời rạc chuyển thành nhanh hơn, đến khi tiếng òt sữa
nhanh liên tục rồi im là lúc sữa đang xuống, heo con nút vú liên tục, đây là thời điểm để đoán biết nái có
Kỹ thuật chăn ni lợn

nhiều sữa hay không. Nếu thời điểm này kéo dài là nái nhiều sữa, nếu diễn ra nhanh, sau khi bú xong heo
con còn cố nút vú là sữa ít. Có thể đánh dấu heo con hoặc cân toàn ổ trước và sau khi bú để biết được khả
năng tiết sữa của heo nái. Thông thường giai đoạn xuống sữa chỉ kéo dài từ 30-60 giây, lượng sữa thải ra
cho mỗi con heo con rất khác nhau tuỳ theo nái, tuỳ theo giống, tuỳ theo lứa đẻ, tình trạng dinh dưỡng, khí
hậu thời tiết… tuyến sữa bò chi phối bởi đònh luật “cơ quan nào hoạt động thì cơ quan đó phát triển”, nếu
ngày hạ thai, các vú đều đồng loạt tiết sữa, thì sau 24 giờ, những núm vú không có heo con bú sẽ tự động
ngưng tiết sữa và chỉ có sữa lại trong lứa đẻ kế tiếp mà thôi. Nếu vú viêm hư hỏng tuyến sữa thì vónh viễn
không tiết sữa nữa.
Thông thường nái đẻ tốt, sự tiết sữa bắt đầu gia tăng từ ngày thứ nhất đến ngày thứ 21 sau khi đẻ, sẽ đạt
sản lượng sữa cao nhất rồi sau đó giảm dần. Vì vậy ở tuần lễ thứ tư có sự khủng hoảng vì thiếu sữa mẹ trên
đàn heo con đang sức tăng trưởng cao, nếu trước đó chưa tập cho chúng quen ăn các loại thức ăn dặm. Tập
cho heo con ăn sớm là một biện pháp kỹ thuật cần thiết để tránh xảy ra tình trạng này.
Để đánh giá khả năng tiết sữa của nái người ta dùng công thức sau:
Sản lượng sữa (kg) = 3 x (tăng trọng của heo con) (kg)
Qua công thức này cho thấy để tăng trọng heo con được 1kg thì phải cần đến 3kg sữa. Người ta thường
tính sản lượng sữa của heo nái sau 7 ngày tuổi heo con (cân trọng lượng toàn ổ heo con 7 ngày tuổi rồi trừ
với trọng lượng heo con sơ sinh toàn ổ để có tăng trọng heo con đến 7 ngày tuổi). Sản lượng sữa của nái sau
7 ngày thường được các nhà chăn nuôi khảo sát hơn vì heo con chưa biết ăn gì ngoài sữa mẹ, nên sự tăng

trọng của chúng là do sữa mẹ mà thôi. Ngoài ra người ta cũng có thể tính sản lượng sữa của heo nái khi heo
con 21 ngày tuổi, (sử dụng trò số tăng trọng toàn ổ heo con lúc 21 ngày tuổi) thời kỳ này có ảnh hưởng một
phần của thức ăn dặm trên sự tăng trọng của heo con, nhưng nó biểu thò khoảng nửa giá trò sản lượng sữa
của nái cho một chu kỳ sữa (thời điểm 21 ngày sản lượng sữa nái lên đến đỉnh cao nhất rồi bắt đầu giảm).
Người ta cũng tính sản lượng sữa cho mỗi lần xuống sữa của nái bằng cách cân trọng lượng toàn ổ heo con
trước và sau khi bú, hiệu số của hai trò số đo được là trọng lượng sữa nái tiết ra cho một lần bú mẹ của đàn
heo con. Đếm số lần heo nái cho con bú trong ngày ta sẽ tính được sản lượng sữa của nái trong ngày.
Để nái tiết sữa tốt, cần tạo bầu tiểu khí hậu tốt cho nái, không quá nóng, quá lạnh, ẩm thấp, hay không
khí quá khô, tránh gió lùa mưa tạt. Thức ăn của nái phải đủ chất không hư mốc, vón cục, phải đủ lượng xơ
cần thiết tránh táo bón.
Khả năng tiết sữa của nái thay đổi theo từng cá thể, tuỳ theo giống, tuỳ theo lứa đẻ, tuỳ theo số con
nuôi, tình trạng dinh dưỡng, khí hậu thời tiết, biện pháp chăm sóc. Trong 3 nhóm giống Yorkshire, Duroc ,
Landrace thì Landrace có khả năng tiết sữa tốt nhưng phải bảo đảm thoả mãn đủ nhu cầu dinh dưỡng, còn
Duroc tỏ ra kém khả năng tiết sữa nhất. Thông thường nái đẻ lứa 1, lứa 2 thường kém khả năng tiết sữa hơn
lứa thứ 3, thứ 4, nhưng những lứa đẻ sau đó thường bắt đầu giảm sút, tuy rằng cũng có những nái đến lứa đẻ
thứ 6, thứ 7 vẫn còn tiết sữa tốt. Về khí hậu thì những nái đẻ trong mùa nóng tháng 4, tháng 5 dương lòch tỏ
ra kém sữa nhất, còn những nái đẻ trong tháng 12, tháng 1 dương lòch thì tiết sữa tốt hơn. Những nái nuôi
dưới 6 con/ổ thì tiết sữa ít hơn những nái nuôi 9-10 con/ổ nhưng nuôi quá nhiều con thì khả năng tiết sữa ít
đi, cơ thể nái gầy sút nhanh.
Kỹ thuật chăn ni lợn

Nái nuôi con trong tháng đầu thường giảm trọng khoảng 10% trọng lượng cơ thể, thức ăn xấu có thể làm
nái giảm trọng nhiều hơn và làm nái chậm động dục trở lại sau khi cai sữa. Đặc biệt trong thời gian nuôi
con nái không động dục, chưa có công trình thử nghiệm nào cho nái vừa nuôi con vừa mang thai mà đạt
hiệu quả.
Trong điều kiện chăn nuôi gia đình và nuôi bán công nghiệp, dùng sữa nái nuôi con kinh tế hơn dùng
thức ăn nhân tạo thay thế sữa mẹ để cai sữa sớm hơn 21 ngày tuổi.
Trong thời gian tiết sữa nuôi con, có sự cân bằng âm giữa lượng calci, phosphore, chất béo mà nái tiết
sữa. Điều này cho thấy nái phải rút calci, phosphore, chất béo dự trữ trong cơ thể để hỗ trợ cho sự tiết sữa,
làm cho nái mất đi lớp mỡ bọc thân sau khi đẻ rất nhanh và xương trở nên xốp hơn, nái yếu chân dễ bò bại.

Tuy nhiên khẩu phần quá dư thừa calci, phosphore, chất béo cũng không phải là biện pháp tốt mà thường là
có hại. Tương tự, gia tăng hàm lượng chất sắt trong bữa ăn hàng ngày của nái cũng không làm tăng chất sắt
trong sữa để giúp heo con tránh được khủng hoảng về thiếu sắt ở tuần lễ thứ 2, thứ 3 khi nuôi giam trên
chuồng xi măng. Bổ sung chế phẩm có chứa iốt cho nái để tăng hoạt tuyến giáp cũng giúp cho nái tiết sữa
tốt hơna3i thận trọng không được dùng quá liều và các chế phẩm có chứa iốt không thể giải quyết trò liệu
các chứng viêm vú, sốt sữa, tắt sữa, tuyến sữa bò teo.
VIII. CHĂM SÓC HEO CON BÚ MẸ (HEO CON THEO MẸ = HCTM)
Heo con theo mẹ cần được nhốt riêng và cho bú cữ trong thời gian ít nhất là 3-4 ngày sau khi sinh để
tránh tình trạng nái mệt hay vụng về đè đạp chết con, và cũng để dễ theo dõi tình trạng tiết sữa của nái. Sử
dụng chuồng nái đẻ tuy có tiết kiệm nhân công nhưng cũng khó tránh tình trạng nái hay đạp con gây thương
tích. Mỗi cữ bú thường cách nhau 1g30 hoặc 2 giờ tuỳ theo tình trạng tiết sữa của nái, nái dư sữa (bệ sữa
phát triển to) heo con bú không hết dễ gây tình trạng đọng sữa viêm vú hoặc giảm sữa thì nên hạn chế thức
ăn cho nái và cho heo con bú nhiều cữ hơn. Sau khi heo con bú xong gom chúng vào ổ úm cũng là biện
pháp tốt để tránh tình trạng heo con bò lạnh về đêm dễ bò rối loạn tiêu hoá. Tuy nhiên ổ úm cũng phải thoát
nước tốt để tránh nhiễm bẩn do phân và nước tiểu chúng bài thải ra. Mỗi lần cho heo con bú và thu gom
vào ổ úm người chăm sóc phải quan sát kỹ tình trạng sức khoẻ của heo con, cần tái sát trùng rốn, kiểm tra
sức bú của heo con, sự xuống sữa của nái, tình trạng tiêu chảy của heo con, nhòp thở và phát hiện sớm
những con thiếu vú mẹ, vú mẹ không sữa, để sớm ghép sang những đàn khác. Sau 3-4 ngày nái khoẻ, con
mạnh thì có thể tự do cho chúng ra vào ổ úm. Trong vòng 3 ngày sau khi sinh nếu heo con không phát triển
thể vóc, da lông bóng mượt mà vẫn còn đỏ, yếu ớt, da nhăn, nằm chồng đống lên nhau, gầy còm trơ xương…
là tình trạng nái mất sữa kém sữa, cần có biện pháp can thiệp kòp thời.
Khi được 3 ngày tuổi thì tiến hành tiêm chất sắt cho heo con (khoảng 1ml chế phẩm chứa 100mg
Fe
++
/con) và tiến hành tiêm lặp lại lần hai cách 10 ngày sau, để chống khủng hoảng về thiếu chất sắt lúc 3
tuần tuổi. Một số chế phẩm có chứa các yếu tố cần thiết cho sự tạo hồng cầu như đồng, sinh tố B
12
… cũng
rất hữu dụng.
Đối với heo con đực không làm giống thì tiến hành thiến vào ngày tuổi thứ 7 vì lúc này dòch hoàn còn

nhỏ, vết mổ nhỏ, mau lành, nên cắt hai đường trên da dòch hoàn (scrotum) để dễ thoát chất dòch từ vết
Kỹ thuật chăn ni lợn

thiến, tránh ứ đọng gây viêm. Đối với heo cái các giống heo ngoại, lai ngoại, nếu không làm giống thì
không cần thiến để nuôi thòt.
Khi được 10 ngày tuổi tiến hành tập cho heo con ăn sớm để tránh khủng hoảng vì thếiu sữa mẹ trong
tuần tuổi thứ 4 (sữa mẹ giảm sau tuần thứ 3). Việc tập ăn giúp cho heo con biết ăn sớm, không lệ thuộc sữa
mẹ nên cai sữa sớm. Thường người ta sử dụng các loại tấm, bắp, đậu nành rang xay hoặc nấu chín, có mùi
thơm, nhét cho heo con vài lần và luôn luôn để phần thức ăn tập ăn vào ổ úm hay máng bán tự động để heo
con tự do liếm láp khi chúng cần. Thức ăn tập ăn có thể không cần chứa hàm lượng protein cao vì heo con
đang có nguồn sữa mẹ dinh dưỡng dồi dào. Phải cho heo con làm quen với nguồn glucid, lipid, protid của
các loại thực liệu thông thường để hệ thống tiêu hoá heo con sớm bài tiết các enzyme tiêu hoá thích hợp.
Khi heo con bắt đầu biết ăn mạnh thì thay thế dần thức ăn tập ăn bằng thức ăn hỗn hợp số 6 (có nơi gọi
là cám D). Nên cho heo con ăn tự do trong các máng bán tự động, tránh dùng thức ăn ẩm, nếu thức ăn nấu
hoặc ẩm thì cho ăn theo bũa ăn, phần dư thừa thường phải chuyển đi để tránh sự lên men ôi chua, sình… nếu
có điều kiện, cho ăn thêm thức ăn xanh càng tốt, nhưng phải rửa thật sạch để tránh nhiễm ký sinh trùng
đường ruột.
Mặc dù sữa mẹ có chứa nhiều nước, nhưng cũng phải cung cấp đầy đủ nước uống vệ sinh cho heo con.
Chuồng trại phải ấm áp, khô ráo, tránh gió lùa mưa tạt. Trong tháng đầu heo con không cần tắm, trừ
những lúc trời nóng oi bức có thể tắm heo con từ 3-4 tuần tuổi vào lúc ban trưa. Nếu chuồng trại có sự đối
lưu không khí thích hợp thì việc tắm mát cho heo con là không cần thiết. Nếu nái cần tắm mát để tiết sữa
nhiều thì phải chú ý tránh làm ẩm ướt chuồng và heo con, chúng có thể bò lạnh và dễ bò rối loạn tiêu hoá
trong những ngày sau đó.
Cần phát hiện sớm những dấu hiệu ở hệ hô hấp, hệ tiêu hoá để sớm có biện pháp can thiệp kòp thời,
giảm bớt tổn thất.
Sự tăng trưởng và sức kháng bệnh của heo con thời kỳ này phụ thuộc vào nái mẹ. Nếu heo nái được
chủng ngừa kỹ, nuôi dưỡng trong lúc mang thai và tiết sữa đúng kỹ thuật, biện pháp chăm sóc tốt, thì đàn
heo con sẽ tăng trọng nhanh, ít bệnh tật. Nếu nái có bệnh như viêm vú, viêm tử cung, sốt, bỏ ăn, lơi ăn,
viêm khớp… thì đàn heo con thường bò ảnh hưởng xấu, gầy còm, tăng trọng kém dễ bò tiêu chảy, tỷ lệ chết
cao.

Heo con có tập quán ăn phân, nhất là ăn phân nái mẹ, vì vậy việc vệ sinh chuồng kỹ tránh đọng chất
bẩn, phân, thức ăn hư mốc ở các ngốc ngách, góc tường lá rất cần thiết. Các vết nứt vỡ thủng ở nền cần
dặm vá trước khi nuôi nái đẻ và heo con vì những nơi này thường ứ đọng nước, phân, thức ăn sình thối, heo
con rất thích ủi, ăn các chất này và dễ bò bệnh đường tiêu hoá, hô hấp… Các loại chuồng bằng lồng sắt nếu
không tháo rửa kỹ cũng bò vấy bẩn, sét rỉ, heo con cắn gặm dễ bò nhiễm trùng.
Nếu sử dụng máng uống, phải chú ý tập quán heo vừa ăn vừa uống, nên máng uống cũng chứa nhiều
cặn thức ăn dễ bò sình thối, ô nhiễm nước uống. Heo con cũng có tập quán hay chui vào máng nước vừa tiểu
vừa uống, hoặc vừa đi phân vừa uống. Một số heo con thích vào ổ úm để tiêu, tiểu nên ổ úm cần đượcvệ
sinh kỹ. Thường từ tuần lễ thứ 3 người ta đóng kín không cho heo con vào ổ úm để tránh tình trạng heo con
Kỹ thuật chăn ni lợn

tiêu, tiểu vào trong đó, lúc này heo con cũng đã lớn không cần đến ổ úm nữa, ổ úm chỉ còn là vai trò nhốt
heo con khi cần thiết (để tiêm chích, cấp thuốc, tẩy uế chuồng).
IX. CAI SỮA
Hiện nay heo con được cai sữa lúc 21 hoặc 28 ngày tuổi. Việc cai sữa heo con sớm hơn cũng khó làm
cho nái động dục sớm và cũng không rút ngắn chu kỳ sinh sản của nái bao nhiêu, nhưng heo con khó nuôi
hơn, tốn kém hơn nếu cai sữa quá sớm.
Trước khi cai sữa 1-2 ngày người ta giảm khẩu phần của nái để giảm khả năng tiết sữa, ngày cai sữa đưa
nái đi qua chuồng nái khô sữa và cho nhòn ăn, nhòn uống hoặc hạn chế nước uống. Ngày thứ hai sau cai sữa
cho ăn 1kg thức ăn hỗn hợp 9044, ngày thứ 3 cho ăn 2kg thức ăn hỗn hợp 9044 ngay thứ 4 cho ăn 3kg và
giữ mức 3kg cho đến ngày thứ 7 sau cai sữa thì có thể phối giống cho nái. Việc cho nái nhòn ăn là để tạo
stress giúp các hormon sản xuất sữa không được tiết ra mà các hormon sinh tồn phát triển để gia tăng sự
tích luỹ dưỡng chất, khi gia tăng thức ăn dần dần, sự tích luỹ dưỡng chất cũng gia tăng, trong khi tuyến vú
từ từ chuyển về trạng thái nghỉ. Cũng có nhà chăn nuôi chủ trương thúc thức ăn cho nái sau ngày nhòn ăn để
gia tăng sự tích luỹ, giúp gia tăng số lượng trứng chín, đậu thai nhiều hơn. Điều này phù hợp với những nái
nuôi nhiều con, gầy còm khi cai sữa, cần được bồi bổ dưỡng chất, nhưng không phù hợp với những nái khi
cai sữa do nuôi ít con, thể trọng không giảm nhiều, thúc thức ăn làm cho nái mau mập ít rụng trứng…
Ngày tuổi thứ 22, 23, 24 đại đa số heo con mọc răng tiền hàm sữa thứ 3 hàm dưới nên cai sữa ngày thứ
21 thường có ảnh hưởng đến sức khoẻ heo con vì làm tăng thêm stress. Tương tự ngày tuổi thứ 28 và 29 đại
đa số heo con mọc răng tiền hàm sữa 4 hàm trên nên cai sữa ngày thứ 28 có thể làm tăng stress cho heo

con. Thường khi mọc răng heo con bò sốt, tiêu chảy trước, sau khi răng nhú khỏi nướu một vài ngày. Tình
trạng này làm heo con mức sức, kém sức kháng bệnh.
Khi cai sữa, heo con cần giảm bớt khẩu phần thức ăn chừng 10-20% để chống stress, giữ chuồng trại khô
ráo thoáng mát (thường được nuôi trên lồng, mỗi lồng là một ổ heo con, tránh nhập nhiều đàn với nhau gây
tình trạng đánh cắn nhau). Có thể pha kháng sinh vào thức ăn để phòng chống bệnh trong 3-5 ngày. Cũng
có thể chọn lọc những con cùng tầm vóc cho ở chung với nhau để dễ chăm sóc nuôi dưỡng, nhất là nhóm
heo nhỏ vóc cần có chế độ bồi dưỡng đặc biệt hơn. Nếu khí hậu lạnh, cần sưởi ấm heo con cai sữa, nhất là
về ban đêm. Thức ăn cho heo con sau cai sữa vẫn là thức ăn hỗn hợp số 9024 (hay cám 9014) cho đến khi
heo con đạt thể trọng từ 15kg trở lên mới chuyển đổi sang sử dụng thức ăn hỗn hợp số 7. Sau 2-3 ngày hạn
chế khẩu phần, nếu heo con khoẻ mạnh thì cho ăn tự do. Cần có đầy đủ nước uống cho heo con vì sau khi
mất nguồn sữa mẹ heo con uống nước nhiều hơn. Khi được 60-70 ngày tuổi heo con chuyển thành heo nuôi
thòt hoặc heo hậu bò làm giống và có chế độ chăm sóc nuôi dưỡng khác nhau.
Sau khi cai sữa, nếu nuôi thêm 1 tháng heo con có thể tăng gấp đôi, gấp ba trọng lượng cai sữa.
X. HEO NUÔI THỊT
Sau khi cai sữa, những heo không làm giống được chuyển qua khu chuồng nuôi thòt. Thời gian nuôi thòt
thường từ 5-6 tháng để đạt thể trọng xuất chuồng từ 80-100kg. mức thể trọng này phẩm chất thòt ngon
Kỹ thuật chăn ni lợn

nhất và hiệu quả thức ăn bắt đầu giảm, heo có xu hướng tích lũy nhiều mỡ, nuôi kéo dài thêm thì không có
lợi.
Trong thời gian nuôi thòt có thể chia ra làm hai giai đoạn:
- Giai đoạn 1:
Khoảng 2 tháng đầu, đây là thời kỳ cơ thể phát triển khung xương, hệ cơ, hệ thần kinh, do đó con thú ần
nhiều protein, khoáng chất, sinh tố để phát triển bề dài (dài thân) và bề cao. Thiếu dưỡng chất cần thiết
trong giai đoạn này sẽ làm cho khung xương kém phát triển, hệ cơ vì thế cũng không phát triển, heo trở nên
ngắn đòn, ít thòt vì cơ bắp nhỏ, sự tích luỹ mỡ ở giai đoạn sau nhiều hơn. Trái lại nếu dư thừa dưỡng chất sẽ
làm tăng chi phí, dư protein sẽ bò đào thài ở dạng urê, heo dễ bò viêm khớp, tích luỹ mỡ sớm. Dư khoáng
chất nhất là calci-phosphore gây hậu quả xấu cho sự hoá cốt tạo xương, một số khoáng vi lượng dư thừa sẽ
trở nên độc.
giai đoạn này người ta sử dụng thức ăn hỗn hợp số 9104 và số 9204 để đạt đến thể trọng khoảng 70kg.

- Giai đoạn 2:
Khoảng 2-3 tháng cuối, đây là thời kỳ heo tích luỹ mỡ vào các sớ cơ, các mô liên kết, con thú nẩy nở
theo chiều ngang, mập ra. Giai đoạn này heo cần nhiều glucid, lipid hơn giai đoạn 1, nhu cầu protein,
khoáng chất, sinh tố cho mỗi kg thức ăn ít hơn giai đoạn đầu. Dư thừa dưỡng chất lúc nàychỉ làm tăng chi
phí thức ăn và tăng lượng mỡ, nhưng nếu thiếu dưỡng chất con thú trở nên gầy, bắp cơ dai không ngon,
thiếu những hương vò cần thiết, thòt có màu nhạt, không hấp dẫn người tiêu dùng. Giai đoạn này người chăn
nuôi sử dụng thức ăn hỗn hợp số 9304 để nuôi heo từ 70kg đến 100kg thể trọng.
Phẩm chất thức ăn có quan hệ trực tiếp đến phẩm chất thòt heo khi giết mổ. Nếu khẩu phần chứa nhiều
chất béo xấu thì sẽ cho quầy thòt có mỡ bệu, dễ bò hoá lỏng và ôi dầu khi tồn trữ lạnh lâu. Chất béo của bột
cá xấu sẽ tạo mùi tanh cho thòt làm cho một số người tiêu dùng không ưa chuộng.
Heo thòt thường nuôi giam chừng 20-40 con mỗi ô, nhốt nhiều quá trong một ô làm cho công tác chẩn
khám bệnh hằng ngày khó khăn dễ bò bỏ sót những con chớm phát bệnh. Chuồng heo thòt phải thoáng mát
có độ dốc thoát nước tốt, không lồi lõm đọng ứ phân nước tiểu. Nên tắm mát thường xuyên lúc khí hậu
nóng để kích thích sự thèm ăn để heo lớn nhanh, mau xuất chuồng. Có thể cho heo ăn theo bữa hoặc cho ăn
tự do với thức ăn khô trong máng bán tự động và đầy đủ nước uống. Nếu có điều kiện cho heo vận động ở
sân cỏ hay sân cát để heo có hệ cơ tốt, ít mỡ, thòt ngon không nhão, bệu.
XI. NUÔI CON GHÉP (NUÔI CON NUÔI)
Sau khi thụ tinh có rất nhiều lý do khiến cho một số phôi không còn sống đến khi thành thai và đến khi
sinh ra còn rất ít thai sống. Những nái sinh ít con là một vấn đề đối với nhà chăn nuôi vì để nái nuôi con thì
không kinh tế, tốn kém, hiệu quả sử dụng nái không cao. Mặt khác, cũng có nhiều nái sinh mỗi lứa rất
nhiều con, không đảm đương nuôi đủ tất cả các con mà nó đẻ ra, vì vậy cần có biện pháp kỹ thuật ghép con
từ những nái nhiều con cho những nái đẻ ít con nuôi hộ. Biện pháp nuôi con ghép sẽ làm tăng số heo con
cai sữa mỗi ổ và thể trọng bình quân heo con khi cai sữa cũng cao hơn, nhờ đó giảm chi phí sản xuất heo
con, tăng lợi nhuận cho nhà chăn nuôi.
Kỹ thuật chăn ni lợn

Để đảm bảo việc ghép con có hiệu quả, mẹ nuôi nhận con dễ dàng và heo con phát triển tốt cần thực
hiện các điều sau:
1. Hai ổ heo đẻ cùng trong một ngày sẽ rất dễ dàng vì nái mẹ nuôi con còn mệt khó phân biệt được con
ruột và con nuôi, chỉ cần nhốt hai nhóm con chung trong ổ úm và cùng lúc cho bú mẹ. Vì sinh cùng lúc nên

khả năng bú được sữa đầu, hấp thu sữa đầu giữa hai nhóm heo con như nhau.
2. Chỉ nên ghép heo con sinh trước cho nái đẻ sau vài ngày (mà ít con) chứ không nên ghép con đẻ sau vài
ngày cho nái đẻ trước đó (mà ít con) vì nái đẻ ít con trước đó sẽ không còn nhiều vú có sữa để cho heo con
ghép sau bú, mặt khác heo con đẻ sau thường yếu ớt khó giành bú lại với đàn con của mẹ đẻ, thiếu sữa thì
con ghép khó có khả năng phát triển được.
Trong trường hợp chờ ghép với mẹ nuôi đẻ sau thì đàn con chờ ghép phải bú đầy đủ sữa đầu của nái mẹ
ruột vì sữa đầu heo con chỉ có thể hấp thu được tốt trong vòng 24 giờ đầu, sau vài ngày thì khả năng này
không còn nên không thể hấp thu được kháng thể của nái mẹ nuôi qua sữa đầu. Vì vậy cũng không nên quá
lo lắng khi ghép con nuôi với nái mẹ nuôi, chúng thường bò tiêu lỏng hay sền sệt trong ngày đầu và hiện
tượng này thường tự nhiên khỏi không cần điều trò. Những heo con nuôi thường bò đói trước đó nên sức thúc
vú để bú rất mạnh làm cho tuyến sữa của nái mẹ nuôi phát triển tốt, các con ruột của nái nhờ vậy phát
triển tốt hơn.
Phải dùng nước tiểu hay nước nhau của nái mẹ nuôi bôi lên mình con ghép để tránh tình trạng nái mẹ
phân biệt con lạ, cắn con, không cho bú. Khi cho bú cần khéo léo không cho con ghép bò ra trước mũi nái
mẹ nuôi và cũng tránh cho chúng kêu la. Nhốt chung hai nhóm con trong ổ úm cũng giúp cho nái không
phân biệt được con lạ. Nhiều nhà chăn nuôi nuôi nhiều nái chửa trong cùng một ô chuồng và khi chúng đẻ
cận ngày với nhau, chúng co 1thể nuôi con chung trong những ô chuồng lớn. Nếu nái có biểu hiện cắn con,
cần nhốt con, cho bú cữ.
Sau 2-3 ngày nếu nái mẹ khoẻ mạnh thường sẽ không còn phần biệt con ruột, con nuôi, đàn heo con sẽ
phát triển tốt.
XII. SINH SẢN ĐỒNG LOẠT
Là biện pháp kỹ thuật cho nhiều nái sinh con trong cùng mốt thời điểm, nhờ đó có thể ghép đàn san sớt
đều số con cho mỗi nái nuôi con để tăng tỷ lệ nuôi sống và trọng lượng cai sữa. Việc sinh sản đồng loạt còn
có lợi là dễ chăm sóc heo con heo nái như tiêm chất sắt, sinh tố, tiêm phòng đồng loạt, tránh bỏ sót và
tránh phải sử dụng thuốc dang dở (ví dụ thuốc dùng tiêm chủng 100 liều chỉ tiêm cho 1 đàn 8-10 con thì sau
đó phải bỏ, lãng phí).
Việc sinh sản đồng loạt cũng có lợi là tránh cho thú đẻ vào lúc khí hậu thời tiết khắc nghiệt, dòch bệnh
hay xảy ra, hoặc thời điểm giáp hạt thức ăn gia súc đắt đỏ hoặc heo con ế ẩm không có người mua.
Tuy nhiên sinh sản đồng loạt cũng có những bất lợi như trong cùng một thời điểm thì nhu cầu đực giống
rất cao, sau đó thì đực không sử dụng, phẩm chất tinh sẽ xấu, lãng phí, nhu cầu chuồng trại cũng sẽ cần

nhiều trong một thời điểm rồi sau đó bỏ trống. Nhu cầu lao động chăm sóc cũng sẽ căng thẳng ở thời điểm
nái đẻ nuôi con, dễ xảy ra tình trạng sai sót, rồi sau đó thì lại quá rãnh rỗi, thiếu việc để làm mà vẫn hưởng
Kỹ thuật chăn ni lợn

lương. Mặt khác nhiều heo con trong cùng một lứa dễ sinh dòch bệnh và dòch bệnh có thể gây tổn thất rất
lớn trong một thời gian ngắn, việc điều trò sẽ rất tốn kém, khối lượng công việc nhiều dễ gây sai sót, khắc
phục hậu quả sẽ rất khó khăn.
Muốn tránh những bất lợi trên, người ta thường cho sinh sản đồng loạt từng nhóm nái 5-10 con, không
quá nhiều. Để có nhiều nái sinh sản đồng loạt người ta thực hiện các biện pháp sau:
1. Tuyển nái hậu bò cùng một thời điểm:
Khi nái hậu bò đến động dục thì cho đực giống kích thích hàng ngày. Thường tuyển nái hậu bò vào mùa
xuân hoặc mùa thu thiên văn (tháng 1, tháng 2, tháng 8, tháng 9 dương lòch hằng năm) và sau 12 tháng thì
sẽ có đàn con đầu tiên, cũng vào mùa xuân hoặc mùa thu, thuận lợi khí hậu thời tiết và thò trường nuôi heo
thòt.
2. Cai sữa đồng loạt
Cai sữa đồng loạt từng nhóm nái trong tuần, với biện pháp cho nhòn ăn rồi tăng dần lượng thức ăn, hơn
80% nái sẽ cùng động dục và có thể phối giống sau khi cai sữa 7 ngày, nhờ đó sau này sẽ cùng đẻ trong
một thời điểm rất gần nhau. Những nái có ngày đẻ không giống nhau ở lứa này cũng có thể cai sữa đồng
loạt để chúng động dục đồng loạt, phối giống và đẻ đồng loạt trong lứa kế tiếp.
XIII. NUÔI HEO CÒI
Dù trình độ kỹ thuật cao, biện pháp chăm sóc tốt, khi cai sữa vẫn có một số ít heo con nhỏ vóc thường
gọi là heo loại 3 hay heo còi. Những heo này nhỏ vóc vì nhiều nguyên do: do bò viêm nhiễm mãn tính ở
một số nơi trên cơ thể như rốn, bò mẹ đạp tổn thương, do tiêu chảy kéo dài hoặc bú nhằm vú sữa ít, vú viêm
mãn tính…
Nếu điều kiện kinh tế khả quan, người ta không nuôi vỗ béo các heo này, mà giết thòt làm bột thòt hoặc
tiêu huỷ… Tuy nhiên với người nuôi ít vốn, nếu nuôi vỗ tốt, chăm sóc kỹ thì nhóm heo loại 3 cũng đóng góp
một phần vốn không nhỏ. Thông thường mỗi đàn heo con có thể có 1-2 con nhỏ vóc. Các heo này thường
có biểu hiện ngắn đòn, bụng to, da nhăn, lông xơ xác, gầy trơ xương. Nếu không có những biểu hiện bệnh
lý thì việc nuôi dưỡng rất có triển vọng, chỉ chậm lớn so với những heo tốt chừng 1-2 tháng để đạt thể trọng
xuất thòt.

Nên có ô chuồng riêng để nuôi với bầu tiểu khí hậu thích hợp, đủ thức ăn tốt, nước uống đầy đủ. Có thể
bổ sung sinh tố ADE, B
1
, B
6
và nhất là B
12
như là yếu tố kích thích tăng trưởng bình thường. Phải thường
xuyên tiêu độc tẩy uế để tránh lây nhiễm mầm bệnh với nhau, việc rải vôi bột khô, quét khô các chỗ ẩm
ướt, bệnh phẩm, giúp cho đàn heo khoẻ mạnh hạn chế bớt thuốc thú y điều trò. Trong một số thời điểm khí
hậu thời tiết bất lợi cần bổ sung một số kháng sinh như là chất phòng bệnh hoặc chất kích thích sinh trưởng
(như nhóm tetracylin, bacitracin…)
Heo còi sau khi nuôi vỗ vẫn có thể còn một số biểu hiện như bụng to, xương nhỏ, tích mỡ sớm, hệ cơ
kém phát triển cho đến khi xuất thòt. Vì vậy một số nhà chăn nuôi chỉ nuôi chúng đến 30-40kg thể trọng thì
giết thòt làm heo quay (thòt mềm xương mềm, ít mỡ ở gai đoạn này).

×