Tải bản đầy đủ (.pdf) (8 trang)

PHÂN TÍCH BÀI NGƯỜI ĐI TÌM HÌNH CỦA NƯỚC docx

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (95.78 KB, 8 trang )

PHÂN TÍCH BÀI NGƯỜI ĐI TÌM HÌNH
CỦA NƯỚC
Người đi tìm hình của nước" - một bài thơ có cốt cách sử thi 1. Có thể
nói cảm hứng nghệ thuật về những lãnh tụ hiện đại đã có nguồn mạch
sâu xa từ những thế kỷ trước. Và gắn với đối tượng này thường có
những hệ thống chất liệu và hệ thống thủ pháp đặc thù. Tuy nhiên, sang
thời hiện đại, nguồn cảm hứng này đã có những biến đổi đối với trường
hợp Hồ Chí Minh, thơ ca, chủ yếu thể hiện ở ba khuynh hướng: Khuynh
hướng thứ nhất là đề cập cùng một lúc đến cả hai phương diện bình
thường và vĩ đại như một sự hài hòa lý tưởng trong nhân cách, trong vẻ
đẹp Hồ Chí Minh, là hướng khá phổ biến. Có thể nói, người tiêu biểu
nhất của hướng này là Tố Hữu, bài thành công hơn cả là Bác ơi, câu thơ
tinh chất hơn hết có lẽ là "Mong manh áo vải hồn muôn trượng";
Khuynh hướng thứ hai nghiêng về phát hiện cái bình thường trong con
người vĩ nhân (dĩ nhiên, đây cũng vẫn là ca ngợi sự vĩ đại, nhưng bằng
con đường gián tiếp - Tônxtôi chẳng đã từng nói: "Lên đến đỉnh cao của
sự vĩ đại, ta gặp sự giản dị"). Bài Đêm nay Bác không ngủ, về căn bản có
thể coi là thành tựu trên hướng ấy; Nghiêng về khám phá sự vĩ đại của
lãnh tụ, đó là khuynh hướng thứ ba. Ở khuynh hướng này, Người đi tìm
hình của nước của Chế Lan Viên xứng đáng là một đại diện xuất sắc.
Toàn bộ bài thơ là sự xúc động trước vẻ đẹp lớn lao, kỳ vĩ của vĩ nhân
Hồ Chí Minh, là việc khắc họa hình ảnh một con người siêu phàm -
người đã kiếm tìm và khai sinh ra nước Việt Nam mới. 2. Hướng đi đó
của Chế Lan Viên bị chi phối trực tiếp bởi quan niệm thẩm mỹ về con
người của ông. Nhìn tổng thể, Chế Lan Viên là người say mê vẻ đẹp siêu
phàm. Con người lý tưởng, theo thi sĩ, phải là con người siêu phàm. Thế
nào là con người siêu phàm? Có thể nói đến nhiều phẩm chất. Tuy
nhiên, hai nét đậm nhất trong hình ảnh con người mà Chế Lan Viên
khao khát thể hiện trong thơ ca của mình là anh hùng và văn hóa.
Người siêu phàm trong thực tại chính là những vĩ nhân. Hai phẩm chất
trên đây đã hội tụ và hài hòa trong quan niệm về vĩ nhân theo kiểu


riêng của nhà thơ: vĩ nhân phải là những anh hùng văn hóa, phải biểu
hiện ra bằng những hành xử siêu phàm. Ta có thể thấy khá rõ lô-gích
của quan niệm thẩm mỹ đó qua luận giải của chính Chế Lan Viên. Trong
thơ Chế Lan Viên, quá khứ đau thương là những thế kỷ vắng bóng anh
hùng, và người anh hùng mà thi sĩ mơ ước là người có tầm vóc kỳ vĩ,
người có thể cầm thanh gươm ngàn cân ra trận để thực hiện sứ mệnh
đổi đời, để vứt hết đau thương mà hóa thành vĩ đại, là người chịu đau
thương mà sinh hạ những bài ca, là người thai nghén đau thương mà
sinh nở cái oai hùng Do đó, lãnh tụ Hồ Chí Minh là hình ảnh chuẩn
nhất cho quan niệm về con người, quan niệm về vĩ nhân của Chế Lan
Viên. Người đi tìm hình của nước thực sự là hình tượng một vĩ nhân "đẻ
ra đời", một con người "đẻ đất, đẻ nước". Đó cũng chính là cái tứ quán
triệt bài thơ. 3. Hành trình của con người yêu nước đi tìm đường cứu
nước đâu phải là hành trình của một thi sĩ ham tiêu dao, du ngoạn, đi
tìm hứng cho những tứ thơ bất hủ, hay đang tìm về cố hương với
những đứt nối, mờ tỏ của bao kỷ niệm tuổi thơ, cũng không phải cuộc
hành hương của những "tín đồ tìm về đất Thánh". Đó là hành trình của
một con người lớn lao đi tìm hình hài cho một nước Việt Nam mới:
Người đi hỏi khắp bóng cờ châu Mỹ, châu Phi, đi khắp những đất tự do,
những trời nô lệ, những con đường cách mạng đang tìm đi Trên hành
trình gian nan vất vả ấy, Người đã đến với Lê-nin. Giờ phút tiếp nhận
Luận cương của Lê-nin là một giờ phút trọng đại, không chỉ đối với cá
nhân Người đang đánh đổi cả đời để tìm kiếm mà còn với cả số phận
dân tộc. Giờ phút ấy thật linh thiêng và chứa đựng trong đó cái huyền
bí của sự hóa thân sinh nở. Luận cương đến với Bác Hồ. Và Người đã
khóc - Lệ Bác Hồ rơi trên chữ Lê-nin - Bốn bức tường im nghe Bác lật
từng trang sách gấp - Tưởng bên ngoài, đất nước đợi mong tin - Bác reo
lên một mình như nói cùng dân tộc - "Cơm áo là đây! Hạnh phúc đây
rồi!" - Hình của Đảng lồng trong hình của nước - Phút khóc đầu tiên là
phút Bác Hồ cười. Ai cũng thấy đây là đoạn quan trọng nhất của bài

thơ. Bút lực của tác giả ở bài này dường như đã dồn trút vào đây nhiều
nhất. Nhiều ý tứ, chi tiết, thành tố ngôn ngữ đã được người nghiên
cứu khai thác, phẩm bình thuyết phục. Tuy nhiên, trong khổ thơ có một
điểm nút mà nhiều người bỏ qua hoặc lầm lẫn, nên như không thấy
được vẻ đẹp quan trọng nhất của tứ thơ. Do đó, cái tứ của bài thơ vẫn
còn nằm trong bí mật. Điểm nút ấy là chủ thể thực sự của "phút khóc
đầu tiên". Ai là chủ thể? Không ít người chả băn khoăn gì đã khẳng định
ngay: thì Bác chứ còn có thể là ai chen vào đó nữa. Đó là sự khẳng định
từ lối cảm nhận có phần đơn giản hóa trước một bí mật tinh vi của thơ
ca. Và để tìm kiếm bí mật này, có lẽ người đọc cũng cần phải làm một
cuộc hành trình: đi tìm cái hình của tứ trong quan niệm bề bộn của thi
sĩ. 4. Là người say mê những biến đổi biện chứng, quan hệ nhân quả
của sự sống, của cuộc đời, của cách mạng , Chế Lan Viên thường bị
hấp dẫn trước hiện tượng "sinh nở". Đối với ông, cách mạng là một
cuộc sinh nở lớn. Và cuộc sống, sở dĩ được coi là cuộc sống, vì nó là
cuộc sinh nở bất tận. Chính vì thế, mô-típ "bào thai", "núm ruột",
"chùm rau", "cái trứng non sông", "bọc hồng đất nước" có một sức
ám ảnh lớn đối với ngòi bút này. Ở đây, mô-típ ấy có một tên gọi, một
biến thể khác: hình hài đất nước. Nếu chỉ giải thích chữ "hình" như là
một hình thái chính trị mới, một mô hình mới của đất nước thì mới
chỉ thấy nội dung chính trị của bài thơ, mà chưa thấy cái hình thức nghệ
thuật của thơ. Mới chỉ thấy nghĩa bóng của chữ. Và việc dùng chữ của
Chế Lan Viên không đi xa hơn một trò chơi chữ là bao, dù rằng nhà thơ
cũng là một tay chơi chữ sành điệu. Cái hay của chữ "hình" trước hết là
ở nghĩa đen (hình, hình hài, sinh thể) của nó. Và cũng vì thế, nó là cái
hay cơ bản của tứ thơ. Do chưa tìm hiểu đầy đủ ý nghĩa phổ biến của
việc dùng mô-típ "bào thai", "sinh nở" để thể hiện hình tượng Bác Hồ
như một người "đẻ đất, đẻ nước" nên nhiều người nghiên cứu, phê
bình đã không phân tích và giảng giải đúng "phút khóc" kia thuộc về chủ
thể nào. Thậm chí coi "phút khóc" chính là tiếng khóc của Bác Hồ vừa

được nói đến ở khổ thơ trên. Thực ra, trong chiều sâu của thi tứ, đó là
tiếng khóc của một chủ thể khác: tiếng khóc chào đời của một đất nước
mới. Chẳng phải vậy sao? Khi Bác Hồ tiếp nhận Luận cương, cũng là khi
đất nước Việt Nam mới bắt đầu tượng hình trong tâm trí Bác Hồ với
những nét dáng đầu tiên. Những điều Người ấp ủ trước kia như một
nhu cầu bức xúc, nay những nhu cầu ấy đã được đáp ứng. Luận cương
của Lê-nin đã gieo vào những nhu cầu thầm kín kia một sức sống mới.
Cả hai lập tức quyện vào nhau trong cái thế giới tinh thần mênh mông
của nhà ái quốc. Và thế là "cái trứng non sông", "bọc hồng đất nước"
lập tức hiện hình. Chẳng phải đó là một phút giây thiêng, là khoảnh
khắc hóa sinh mầu nhiệm của sự - sống - lịch sử ư? Trong cõi sâu kín
của lòng lãnh tụ, nước Việt Nam mới như những tế bào phôi thai, như
một hình hài trứng nước, đã bắt đầu hiển hiện. Tư duy thơ vốn ưa phức
tạp hóa, rắc rối hóa của Chế Lan Viên chưa chịu dừng lại ở đây. Ông
muốn phiêu lưu hơn chút nữa. Ông muốn cái "hình của nước" phải thực
sự trở thành một sinh thể, một sinh mệnh. Sinh mệnh ấy muốn chứng
tỏ sự sống chính thức của mình. Có như thế hình tượng thơ mới trở
nên kỳ ảo, hình tượng người đẻ đất, đẻ nước mới trở nên kỳ vĩ và tứ
thơ mới trở nên kỳ bí: Hình của Đảng lồng trong hình của Nước - Phút
khóc đầu tiên là phút Bác Hồ cười. 5. Tôi không cho rằng câu thơ trên là
hay, càng không phải là hay nhất. Bởi cái hay thường bình dị, thường
ngại sự rắc rối! Nhưng đó là câu thơ quan trọng, là điểm nút của mạch
thi tứ. Do vậy, xin đừng ngại rắc rối mà lại rơi vào đơn giản hóa. Câu thơ
đòi ta phải giàu cảm thông, thấu hiểu hơn, phải xuyên qua cái hình thức
rắc rối để mà tiếp nhận cái nội dung bình dị của nó. Vậy, cần phải cảm
thông thế nào? Hẳn là, đến đây, tư duy thơ của Chế Lan Viên bị đẩy đến
một sự lựa chọn gay cấn. Toàn bài, tác giả đã dựng lên hình ảnh một
con người siêu phàm. Nhưng việc khắc họa hình tượng không phải bằng
những thao tác tượng trưng hóa hay thần thoại hóa. Nếu bài thơ đi
theo hướng này, hẳn người đọc sẽ dễ hình dung hơn, có điều, chắc

chắn sẽ không hợp với sở trường Chế Lan Viên. Cái mà thi sĩ dày công
khắc họa vẫn là hình tượng một vĩ nhân siêu phàm, nhưng lại trong tất
cả tính hiện thực của nó. Vậy làm sao để có thể hòa giải hai đối cực vừa
siêu phàm vừa hiện thực được? Bài toán nan giải này đã được tư duy
của Chế Lan Viên đáp ứng theo một lối riêng. Lối nào vậy? Ấy là xe kết
hình tượng và thi tứ. Hình tượng thì nghiêng về hiện thực. Còn thi tứ
thể hiện phía siêu phàm. Nhân vật lãnh tụ được khắc họa bằng những
gì chân thực nhất từ các sử liệu ai cũng biết trong tiểu sử của Người,
bằng không gian hiện thực, thời gian hiện thực , mọi chi tiết thuộc về
vật liệu tạo dựng hình tượng nhất nhất đều tuân theo chiều kích của
hiện thực. Không có chi tiết nào theo hướng khổng lồ hóa, thần thoại
hóa. Nhưng, nếu chỉ thế thôi, làm sao có thể khiến hình tượng người đẻ
đất, đẻ nước hiện ra được. Thế là, Chế Lan Viên đã thực hiện yêu cầu
này bằng cách gửi vào thi tứ: đi tìm đường cứu nước là đi tìm hình của
nước, hơn thế nữa, là hoài thai và khai sinh ra một nước Việt Nam mới.
Cấu trúc đã giúp thi sĩ làm cho khía cạnh sinh thành, sinh nở, hoài thai
của hình tượng Người đi tìm hình của nước trở nên sâu kín và tinh tế
(Cố nhiên cũng vì thế mà tứ thơ trở nên kỳ bí!). Thì chính câu thơ kia đã
làm bật lên cái tứ thơ đó. Bình diện nội dung chính trị của câu thơ Hình
của Đảng lồng trong hình của nước, không khó hiểu lắm (đây chẳng qua
là hình thái chính trị mới của đất nước mà trong đó độc lập dân tộc gắn
liền với giải phóng giai cấp). Cái khó là bình diện hình thức nghệ thuật
kia. Khi Bác thấy rõ mồn một Hình của Đảng lồng trong hình của nước,
thì tức là cái hình hài của nước Việt Nam mới đã thực sự tượng hình
trong tâm khảm của Người như một sinh thể. Cái giây phút huyền diệu
từ "không" đã thành "có". Sinh thể ấy đang sống động trong Bác.
Nghịch lý của câu sau là hình thức có phần rắc rối của cái lôgic nghệ
thuật đó. "Phút khóc đầu tiên" nghĩa là phút khóc chào đời! Đất nước
Việt Nam mới đã chính thức tượng hình trong Bác, đã có mặt trên đời
vào cái thời điểm Lệ Bác Hồ rơi trên chữ Lê-nin. Phút khóc đầu tiên của

nó, tiếng khóc chào đời của nước Việt Nam trứng nước đã chuyển hóa
thành tiếng cười tột cùng sung sướng của nhà cách mạng. Rồi mấy chục
năm về sau, đến 2-9-1945, Bác Hồ sẽ chính thức tuyên bố khai sinh ra
nước Việt Nam trước toàn thế giới. Nhưng từ "phút khóc đầu tiên", với
tư cách là hình hài trứng nước, là một sinh mệnh thực sự, đất nước Việt
Nam mới đã nằm trong lòng Bác Hồ, đã có mặt trong lịch sử của nhân
loại này. Từ bấy, Người sẽ thường xuyên sống cái hạnh phúc âm thầm
mà rất đỗi thiêng liêng của một người mang năng lực sinh thành là lắng
nghe sự tượng hình, phôi thai từng phút, từng ngày của cái trứng nước
non sông bọc hồng đất nước: Kìa! Bóng Bác đang hôn lên hòn đất - Lắng
nghe trong màu hồng hình đất nước phôi thai. Hình ảnh ấy chẳng phải
vừa rất hiện thực vừa rất siêu phàm sao! Người đang lắng nghe sự sống
của sinh thể đất nước đang phôi thai trong lòng mình, lắng nghe sự
sống của "cái trứng non sông, bọc hồng đất nước" như thế, chẳng phải
là Người đẻ đất đẻ nước đó sao! Câu kết của bài thơ đã hoàn tất cái tứ
"hình của nước" như một mạch kín suốt toàn bài.

×